BÙ KHÚ TIÊN SINH – Truyện dài Đào Hiếu

TÓM LƯỢC NỘI DUNG TÁC PHẨM

Nếu như tự truyện LẠC ĐƯỜNG kể lại hành trình của một trí thức trẻ lên rừng theo Việt cộng để rồi vỡ mộng khi biết minh lạc đường, thì BÙ KHÚ TIÊN SINH là cuộc chia tay đầy bi kịch của gã Việt cộng ấy với cái guồng máy quái đản mà hắn từng tham dự.

Sau ngày 30/4/75 anh ta ở Rừng về nhưng không muốn chen chân vào chốn quan trường mà trở về với quần chúng, sống chung với những người cùng khổ trong xã hội. Đây là một hình thức phản kháng của người trí thức. Sư thức tỉnh của hắn đã phải trả giá bằng chính mạng sống của mình.

TỰA

KHÔNG CHỜ NGÀY MAI

Năm 1949 Samuel Beckett viết vở kịch nổi tiếng “En Attendant Godot” với những nhân vật cứ loay hoay làm những việc vô nghĩa trong khi chờ Godot đến để cứu rỗi, để đổi thay.

Nhưng Godot đã không bao giờ đến.

Vở kịch, thoạt tiên không ai xem vì quá đơn điệu, nhưng rồi sau đó khán giả châu Âu ùn ùn đến rạp vì cho rằng nó là một ẩn dụ về sự vô vọng của Chủ nghĩa Xã hội.

Nhân vật chính trong tác phẩm “Bù Khú Tiên Sinh” này là một trí thức Sài Gòn lên rừng theo kháng chiến. Gã biết Godot không bao giờ đến nên không chờ.

Gã chọn con đường riêng.

Gã sống như một nhà tiểu thuyết của đời mình, một kẻ sáng tạo ra bản thân, một bánh răng tự nhảy ra khỏi guồng máy.

Lúc ở chiến khu làm Việt cộng, lúc ở tù, hay lăn lộn vào thế tục… đâu cũng thế, vẫn cứ là gã. Sống thực, sống đầy, sống như triều dâng, sống hoang dã và sống tận tình, sống lặng lẽ và sống bất bình.

Gã có thể bù khú hay im lặng, cười hay khóc, phóng đãng hay thánh thiện. Sao cũng được.

Gã đem cuộc đời mình ra mà bù khú, mà chơi, mà sáng tạo và hủy diệt. Đó là dốc hết tinh anh ra mà sống, không cần ai tán thưởng.

Như một dòng sông háo hức băng vào đại dương bao la, gã phóng mình đi.

Gã chỉ có một dịp để sống. Gã rất vội. Nên không chờ ngày mai.

NHẬT CHIÊU

(Nhà văn, nhà nghiên cứu văn học, dịch giả.
Sinh 1951 tại Sài Gòn. Hiện là giảng viên của nhiều chuyên đề văn học và văn hoá tại ĐH KHXH & NV TP. HCM, và nhiều đại học khác.)

1.ẨN SĨ

Có người nọ không rõ quê quán ở đâu, học vấn thế nào, về đất Phú Xuân cất một cái am bên nhánh sông vắng vẻ, ở chung với một con chó. Tiên sinh không giao du với ai, trong nhà cũng chẳng có ti-vi, điện thoại. Không nghe tiếng nhạc, cũng không tiếng người. Lâu lâu mới có tiếng chó kêu ăng ẳng vì mừng rỡ. Tuyệt nhiên không có tiếng sủa.

Tương truyền thời trai trẻ cũng có đi học nhưng thi mãi không đỗ nên suốt đời làm anh nhân viên quèn, bèn xoay nghề thi phú nhưng cũng không thành công, tác phẩm chẳng ai biết tới. Lại thử ra kinh doanh mở quán rượu thì bạn bè kéo tới nhậu nhẹt mà khất nợ nhiều quá, lỗ vốn phải dẹp tiệm.

Một ông già ngoài năm mươi như thế ít khi được các bà các cô để mắt tới, và tiên sinh thì cũng chẳng buồn trò chuyện với ai, tối ngày khép kín trong cái am như một nhà tu, một ẩn sĩ.

Ngày nọ, nhân lúc cao hứng, tiên sinh diện một bộ đồ thể thao, tà tà thả bộ dọc bờ sông, ra cái vẻ ta đây vẫn còn phong độ.

Không biết từ lúc nào hiện ra một bãi bồi nhỏ, trên đó mọc lên một quán cà phê xinh xắn.

Quán vắng khách, tiên sinh bước vô mà không thấy ai ra tiếp, bèn đằng hắng rồi kéo ghế ngồi dưới gốc cây bàng. Lát sau có một cô nương chừng ngoài ba mươi, yểu điệu bước ra từ lùm cây xơ-ri thấp và đầy trái chín.

Tiên sinh hỏi:

-Quán này mở lúc nào vậy?

-Được hơn một tháng nay. Anh cũng ở gần đây sao?

-Gần đây. Qua mấy cái rẫy bắp, đi một đoạn nữa thấy có cái am nhỏ.

Cô nương có vẻ ngơ ngác, hỏi:

-Am là cái gì vậy?

-Cũng giống như một cái chùa nho nhỏ.

-Vậy anh đi tu sao? Anh không giống một người đi tu.

-Anh đi ở ẩn.

-Ở ẩn là gì?

-Là chán đời, muốn tìm chỗ thanh vắng, sống một mình.

-Anh cũng không giống một người chán đời.

Tiên sinh khuấy cà-phê, ngắm cái mặt tươi tắn của cô chủ quán.

-Em có phải dân Bến Tre không?

-Sao anh nghĩ em là dân Bến Tre?

-Con gái Bến Tre da trắng, tóc dài, hai cánh tay rất tròn.

-Nhưng em là người Đồng Nai.

-Em lên đây ở một mình sao?

-Một mình.

-Đáng lẽ em phải có chồng rồi.

-Tại sao?

-Cũng giống như trái cây vậy. Khi nó chín đỏ, hương sắc phát tiết ra ngoài, khó mà ở yên trên cành, thiên hạ sẽ tranh nhau đến hái.

Tiên sinh chỉ xuất được mấy chiêu đó thì khách vô, toàn tụi thanh niên ồn ào, ăn tục nói phét. Tiên sinh bèn cáo từ. Lòng vui vì cảm thấy mình vẫn còn phong độ.

*

Ngọc ngồi một mình bên khóm xơ-ri, thấy ông già hôm trước lại đến thì nói:

-Hôm qua em có đi ngang cái chùa của anh.

-Sao không vô lạy Phật?

-Phật ở đâu mà lạy. Em chỉ ngó một chút cho biết thôi. Sao anh sống một mình vậy? Bộ anh không có vợ hả?

Tiên sinh ngồi xuống, cả cười:

-Không có vợ á? Em nghĩ sao mà nói vậy?

-Em nhìn cái dây phơi đồ. Chỉ có một bộ đồ đàn ông, hai cái áo thun ba lỗ và hai cái quần đùi. Không thấy có đồ đàn bà.

-Em lầm rồi. Chẳng những anh có vợ mà còn có rất nhiều vợ.

-Cỡ bao nhiêu?

-Cho anh mượn cái máy tính.

-Để làm gì?

-Vì anh rất dốt toán. Hể cộng trừ trên con số một trăm là anh lộn liền.

-Ý anh nói anh có hơn một trăm bà vợ?

-Chắc vậy.

-Xạo quá.

Ngọc đưa cho ông già mấy trái xơ-ri chín đỏ. Tiên Sinh nói:

-Thực ra thì khoảng vài chục bà.

-Chính xác là bao nhiêu?

-Hai mươi bảy.

-Còn bồ nhí?

-Hồi còn trẻ anh có một cuốn sổ, ghi tên theo thứ tự A.B.C… bây giờ mất rồi.

-Vậy sao bây giờ ở một mình với con chó con vậy?

-Bị đàn bà nó bỏ.

-Tất cả đều bỏ anh sao?

-Tất cả.

-Sao vậy?

-Bị bất lực sinh lý. Ủa, mà em tính lấy anh hả?

-Đừng có mơ. Đã già lại bất lực. Ngu sao lấy anh?

-Còn nếu anh không bất lực thì sao?

-Lấy liền.

-Anh khuyên em bỏ ý định đó đi. Lấy anh em sẽ khổ cả đời. Anh là kẻ lang chạ, phản bội, rượu chè bê tha, tối ngày bù khú với đủ hạng người. Bạn bè  gọi anh là Bù Khú Tiên Sinh.

-Thôi, không tin đâu. Chưa thấy ai xạo như anh.

-Nhưng sao tự nhiên hôm nay điều tra lý lịch kỹ vậy?

-Quen với ai thì phải biết rõ người ấy chớ.

-Anh cũng vậy. Em có thể cho anh biết chút xíu về em không?

-Được. Nhưng ly kỳ lắm đấy. Đời anh không bằng một góc của em đâu.

-Thế em nghĩ gì về một người có hai mươi bảy bà vợ? Nếu hắn ta không phải là thần thánh thì cũng là quái vật.

-Anh thuộc loại nào?

-Đừng sốt ruột. Rồi em sẽ biết. Từ từ rồi cũng biết hết. Kể ra một lúc em sợ quá bỏ quán chạy trốn thì sao. Vì vậy tốt nhất là em nên kể một chút về em đi. Coi như chúng ta đang ở giai đoạn tìm hiểu.

-Tìm hiểu để làm gì?

-Để kết duyên với nhau.

-Em không lấy đàn ông bất lực đâu.

-Không lấy cũng được, nhưng hãy nói về em đi đã.

-Không. Anh phải khai báo trước. Để em biết anh là người thế nào rồi em mới tâm sự với anh được chớ.

-Vậy theo em, anh là người thế nào?

-Cán bộ hưu trí?

-Anh mới năm mươi, sao nghỉ hưu? Nhưng “cán bộ” thì đúng.

-Vậy anh là “cách mạng”?

-OK. Người ta gọi là Việt cộng đấy.

-Nhưng anh cũng không giống Việt cộng. Cái cách nói chuyện, cách ăn mặc. Giống dân Sài Gòn.

-Bộ dân Sài Gòn không có ai là Việt cộng sao?

-Em tưởng Việt cộng là ở trên rừng về chớ. Ốm nhách. Mang dép râu. Đội mũ tai bèo.

-Thì anh cũng ở trên rừng. Nhưng trước khi lên rừng, anh là sinh viên đại học, từng bị bắt bỏ tù nữa. Được không?

Cô chủ quán nghiêng mặt, nhìn ra mé sông, có vẻ suy nghĩ.

-Nhưng anh có biết bắn súng không?

-Thôi! Hỏi nhiều quá. Không muốn trả lời nữa. Em ngồi xuống đi. Hút với anh điếu thuốc nhé?

Bù Khú rút một điếu Samit, đưa cho Ngọc và bật quẹt. Ngọc phun khói lên trời.

-Em chưa tin anh đâu.

-Tại sao?

-Vì nếu anh là trí thức đi kháng chiến thì bây giờ phải làm lớn, ở biệt thự. Sao chui vô cái chòi mà ở?

-Nãy giờ anh bịa chuyện, nói dóc chơi.

-Thấy chưa! Nhìn cái mặt biết xạo rồi. Lại còn khoe từng ở tù nữa. Vậy mà đòi tìm hiểu lý lịch của tui. Đòi kết duyên với tui. Khùng!

Có hai người khách đến, Ngọc ném tàn thuốc lá xuống đất, bước nhanh ra đón.

Bù Khú rót trà vô tách cà phê, uống một ngụm rồi lấy cái tách đè lên tờ giấy bạc, đứng dậy, bỏ về.

*

Sáng thứ hai quán thường vắng khách nên khi đi ngang qua cái am của Bù Khú, Ngọc muốn ghé vào thăm ông già một lát.

Nhà cửa trống trơn, cửa nẻo mở toang hoác. Con chó nhỏ thấy khách đến thì ngoắc đuôi mừng, vì thế nên chủ nhà đang nằm ngủ trên võng không hề hay biết gì cả.

Ngọc đứng nhìn Bù Khú rồi nhìn quanh căn nhà. Một mái tranh, những bức tường gạch nham nhở, chiếc bàn gỗ, cái giường nhỏ kê sát vách và một chiếc xe gắn máy cũ. Tất cả toát lên vẻ lạnh lẽo, đơn độc hơn là nghèo khổ.

Ngọc bước rất nhẹ, sợ làm chủ nhà thức giấc. Nhưng khi chị vừa định quay ra cửa thì thấy trên bàn có một xấp giấy mỏng, một cây bút bi và một vật dụng gì đó mà chị chưa từng thấy bao giờ.

Ngọc ngồi xuông ghế, cầm nó lên, săm soi một lúc. Nó tròn, chỉ to cỡ một chai nước hoa nhưng lại bằng kim loại, phía trên có một cái nắp bằng nhôm, được nối với thân chai bởi một sợi xích cũng bằng nhôm mảnh như cái vòng đeo tay của phụ nữ. Ngọc ngắm nghía rất kỹ nhưng vẫn không biết nó là cái gì.

Chị đặt nó xuống bàn, cạnh xấp giấy và thấy có mấy dòng chữ Hán thẳng thớm, sắc sảo. Chị không hiểu nhưng dòng chữ đó nói gì nhưng chúng làm chị tò mò quá.

Ngay lúc ấy Bù Khú trở mình. Giọng của ông vẫn còn ngái ngủ:

-Đưa cho anh chai rượu.

-Chai rượu ở đâu?

-Ở ngay dưới chân bàn.

Rượu chỉ còn một ít nên Bù Khú uống cạn rồi thảy cái chai xuống đất. Ngọc hỏi:

-Anh viết gì trên giấy vậy?

-Đó là bài thơ của một thi sỹ đời Đường tên là Giả Đảo.

-Bài thơ ấy nói gì?

Bù Khú đọc:

“Nhị cú tam niên đắc.

Nhất ngâm, song lệ lưu

Tri âm như bất thưởng

Quy ngoạ cố sơn Thu”.

Có nghĩa là: “Ba năm mới làm được hai câu thơ. Đọc lên mà rơi nước mắt. Vậy mà bạn ta không biết thưởng thức. Ta buồn, quay về núi nằm với mùa Thu xưa”.

Ngọc cầm cái vật lạ lúc nãy trên tay rồi nhắc cái ghế đến ngồi cạnh võng.

-Bài thơ buồn quá. Hôm nay anh cũng có tâm trạng buồn như vậy sao?

-Tối qua anh không ngủ được. Gần sáng ngồi chép lại bài thơ này.

-Gặp anh hôm nay, em thấy anh khác hẳn nhưng lần gặp trước. Em thấy anh thật bí ẩn và linh cảm đời anh là cả một bi kịch dài.

Ngọc đưa cái vật lạ cho Bù Khú.

-Đây là cái gì vậy?

-Cái đèn dầu.

-Sao nó kỳ cục vậy? Giống như vỏ đạn.

-Đúng là vỏ đạn. Đạn M79 của quân đội Mỹ. Hồi ở trên rừng bọn anh mỗi người đều phải có 3 chữ Đ. Đó là Đài (cái radio), Đùng (súng) và Đèn, tức là cái anh đang cầm đây. Khi chiến tranh chấm dứt, anh trả lại radio, súng, chỉ giữ cái đèn này để làm kỷ niệm.

Ngọc cười khúc khích, vò đầu Bù Khú.

-Bây giờ thì em tin anh là Việt cộng rồi. Vậy anh phải kể lại chuyện đời anh cho em nghe như đã hứa.

-Nhưng em muốn anh bắt đầu từ đoạn nào? Thời sinh viên, lúc ở tù hay lúc ở trong chiến khu?

-Em muốn nghe chuyện vượt ngục, tìm về chiến khu.

2.VƯỢT NGỤC

Căn phòng bày biện các dụng cụ tra tấn từ thời thực dân Pháp để lại: xiềng sắt dùng xích tay tù nhân, roi da bò, roi vặn thừng, dùi cui cao su dùng để đánh vào người, vào mặt, vào đầu tù nhân, một máy tra điện quay tay, một thùng đựng nước xà phòng để đổ vào miệng vào mũi tù nhân cho ngộp thở.

Roi vặn thừng là dụng cụ rất tàn độc, nó có gắn đinh ở phía cuối, mỗi lần đánh vào người tù nhân, khi nhấc roi lên da thịt người tù dính theo từng mảng, máu chảy ướt sàn nhà.

Trong phòng có ba người: tư Cum, ngoài bốn mươi, tóc húi cua, mặt đen, tướng ngũ đoản, tay cầm ngọn roi vặn thừng, một viên cảnh sát áo trắng ốm nhách, đeo súng ru-lô và Bù Khú.

Thời gian: một giờ sáng.

Tư Cum cầm ngọn roi vặn thừng lên, đến trước mặt Bù Khú.

-Suy nghĩ kỹ chưa? Có chịu dẫn tụi tao tới đó không?

Bù Khú im lặng. Tư Cum xoay nửa vòng, vung roi quất vào cái bao cát bằng vải bố treo phía bên trái. Những cái đinh ở đầu roi cắm ngập vô bao cát. Và khi hắn thu roi về thì cát chảy thành từng dòng xuống sàn.

-Máu của mày cũng sẽ chảy như vậy đó. Thế nào? Có chịu dẫn không?

Hắn lại vung roi lên. Bù Khú đưa tay ngăn lại.

-Tôi sẽ dẫn các ông đi.

Thế là đi. Nhưng Tư Cum chỉ đem theo có sáu cảnh sát dã chiến trong đó có một sĩ quan truyền tin. Trực thăng bỏ bọn họ xuống cách bờ sông chừng năm cây số. Bù Khú bị kèm giữa hai cảnh sát dã chiến đi trước dẫn đường. Tư Cum đi giữa và ba cảnh sát khác đoạn hậu. Tất cả bọn họ đều mặc thường phục, giả làm dân chài, lựu đạn và súng ngắn giấu trong người, máy truyền tin PRC 25 giấu trong một cái giỏ lát.

Một chiếc ghe máy đợi sẵn ở bến sông.

Khi đã yên vị trên thuyền, Tư Cum trợn mắt nhìn Bù Khú.

-Mày mà lừa là tụi tao bắn liền.

Bù Khú nói:

-Đừng lo. Bây giờ đi ngược dòng. Qua mấy cái bè cá sẽ gặp một đám rừng thấp rồi tôi chỉ tiếp.

Chiếc ghe máy đi về hướng đó. Mấy chiếc ghe chở trái cây từ Long Khánh xuống đi ngược chiều, tạo những vòng sóng nối tiếp không dứt.

Ở tận trên cao, có một chiếc L19 bay yên lặng, bình thản như một con quạ đen nhàn nhã thả nổi trên những lớp gió.

Mười lăm phút sau bọn họ gặp một đám bè cá nhỏ nối kết nhau trên mặt sông rộng. Những ngư dân đã thức dậy bên bếp lửa, hút thuốc rê và uống trà. Họ có vẻ hơi ngạc nhiên về sự xuất hiện của một chiếc ghe lạ đi quá sâu vào trong hẻm núi. Tầm mắt của họ nhòa dần trong chút sương còn lãng đãng và chiếc ghe máy của Bù Khú thì mất hút trong sóng nước.

Lát sau đám rừng thấp hiện ra trùng điệp, xanh ngắt, la đà trên mặt nước trong vắt. Phía sau mảng rừng thấp ấy là những ngọn núi nhiều tầng nhạt màu hơn trong ánh nắng ửng vàng.

-Sắp đến chưa?

-Sắp rồi. Tắt máy đi. Phía trước có một nhánh sông nhỏ. Dùng mái chèo luồn thuyền dưới những tán lá. Giữ im lặng.

Viên sĩ quan truyền tin mở máy kêu xè xè. Chiếc ghe vừa rẽ qua nhánh sông thì Bù Khú chỉ tay về phía trước:

-Có thấy cái mô đá màu đen không?

Mọi con mắt đều chĩa vào đó. Nín thở. Chiếc ghe lướt êm dưới những tán lá thấp. Lát sau nó đến một khúc quanh hẹp. Bù Khú ra hiệu cho nó rẽ vào đó. Và khi nó vừa bẻ lái thì Bù Khú phóng người xuống nước, lặn sang nhánh sông lúc nãy, trong khi chiếc ghe của Tư Cum bị mắc kẹt giữa khúc quanh nhỏ xíu dày đặc những gốc đước chằng chịt, không quay đầu lại được.

Tiểu liên bắn xối xả xuống nước. Lá rụng tơi tả. Cành đước gãy xơ xác. Cò trắng hoảng hốt bay lên, kêu “tác, tác…”

Chiếc ghe đâm sầm vào những chùm rễ cây, kẹt cứng và mất phương hướng. Các xạ thủ không còn biết phải bắn về hướng nào nữa.

Lựu đạn được ném xuống lõm bõm giữa những lùm cây, nổ ầm ầm, tung những cột nước lên cao. Nhưng Bù Khú đã xuôi theo con nước ra tới sông cái rồi.

Thực ra đây chỉ là một vùng sông núi xa lạ đối với Bù Khú. Chính anh cũng không biết căn cứ cách mạng đóng ở chỗ nào. Anh dẫn bọn Tư Cum về đây dựa theo trí nhớ về một câu chuyện kể trong tù, qua đó anh hiểu được địa hình vùng núi Thị Vãi, các nhánh sông và đặc điểm sinh thái. Anh hy vọng nhờ các chi tiết trong câu chuyện kể nọ anh có thể tìm đường về với các đồng chí mình.

*

Xế chiều, Bù Khú mới leo lên được tới lưng chừng núi, đói khát và mệt rã rời. Đôi dép đã đứt quai nhưng anh không vứt đi mà dắt nơi lưng quần, cho tới khi tìm được một bụi chuối rừng anh mới dùng bẹ chuối buột chặt chúng vào hai bàn chân và tiếp tục đi về hướng Đông.

Bù Khú lạc vào một cái rẫy trồng đậu phộng, mía và bắp. Anh đến được chỗ cái chòi nhưng không leo lên được bên trên, đành ngồi nghỉ dưới vùng đất đầy những vụn đá ong. Cơn buồn ngủ kéo anh xuống đất.

Lúc tỉnh dậy, anh thấy một lão già vác rựa và mang một cái giỏ tre đang đứng nhìn anh. Bù Khú lồm cồm bò dậy.

-Cậu ở đâu đến đây?

-Cháu bị lạc.

-Đi đâu mà bị lạc?

-Đi làm rẫy.

Lão già nhìn chăm chú vào hai bàn chân quấn bẹ chuối của người lạ rồi lấy trong giỏ tre ra một củ khoai luộc đưa cho Bù Khú.

-Tôi biết cậu là ai rồi.

-Cám ơn bác. Cháu xin ở nhờ một đêm. Sáng mai sẽ đi.

-Được. Nhưng bây giờ tôi phải về nhà. Cậu có cần tôi đỡ lên nhà sàn không?

-Chắc cháu tự lên được.

Ông già nói:

-Trên đó có nước uống và một ít khoai, cậu có thể đem theo ăn. Nhưng ngày mai phải đi sớm nha. Đừng để những người đi làm rẫy nhìn thấy cậu.

-Cháu hiểu.

Ông già quay đi, được mấy bước thì dừng lại, hỏi:

-Nhà tù nào?

-Tân Hiệp.

-Cậu có hút thuốc lá không?

-Dạ không.

Ông già đi khuất vào đám mì.

Nhờ ngủ được một giấc ngắn và ăn được một củ khoai, Bù Khú đã có thể leo lên được trên chòi. Mọi thứ đều khá gọn gàng. Anh nấu nước trà uống và vùi thêm mấy củ khoai vào tro nóng.

Sáng sớm, Bù Khú lại đi về hướng cũ. Ban đầu anh cứ tưởng leo lên tới đỉnh, qua bên kia núi là gặp căn cứ cách mạng, nhưng khi đã đến đỉnh rồi, nhìn xuống thung lũng, mới thấy trùng trùng điệp điệp, không biết đi về hướng nào. Anh ngồi nghỉ dưới tàn cây, tìm kiếm chút dấu vết và anh phát hiện một lối mòn nhỏ chạy qua một nương rẫy.

Bú Khú leo xuống đó nhưng rẫy đã bị bỏ hoang từ lâu, mặt đất cháy sém, những đám bắp khô tàn lụi, những đám mía xơ xác, còn trơ lại những chồi lá non lưa thưa trên cái nền đen của tro than.

Cạnh bếp lửa trong túp lều xiêu đổ, Bù Khú tìm thấy một con dao trành rỉ sét và một cái ca múc nước. Anh lấy dây buột chúng, đeo bên thắt lưng.

Những củ khoai luộc đã hết nhưng trong căn lều rách nát không còn gì có thể ăn được. Bù Khú quyết định đi xuống rẫy, ở đó anh hái được một ít đọt rau lang còn sót lại và một mớ lá giang quấn trên những lùm cây thấp. Phía sau túp lều, anh gặp một khoảnh đất ẩm ướt, lần theo nó, anh phát hiện một cái khe nhỏ có nước nhỏ giọt, vàng khè. Anh hứng thứ nước đó bằng cái ca nhôm móp méo và nếm thử. Dường như có thể uống được nhưng anh chỉ nhấp một chút cho đỡ khô cổ.

Anh tìm kiếm quanh chỗ đất ẩm và bắt được mấy con ốc sên, đem chúng vô lều và nướng trên củi. Mấy con ốc sên và đọt rau lang làm anh hồi sinh, anh dọn cho mình một khoảng trống quanh bếp tro và nằm xuống.

Anh ngủ mê mệt cho đến nửa đêm thì thức dậy có lẽ vì lửa đã tắt. Chung quanh tối đen và im lặng dễ sợ. Không một tiếng gió, không một tiếng côn trùng. Anh cảm thấy như mình đang nằm trong một nhà mồ hoàn toàn tách biệt. Anh cố nhìn ra ngoài đêm tìm một chút ánh sáng của bầu trời nhưng toàn đen kịt.

Bù Khú cố ngồi dậy nhóm lại ngọn lửa thì nghe có tiếng động. Dường như đó là tiếng bước chân nhưng rất nặng nề. Có lẽ là một con vật hai chân nhưng khập khiễng. Tiếng bước chân không đều nhưng vang dội. Có thể đó là một con đười ươi rất lớn, nó đang bị thương hay nó đã què.

Tiếng bước chân đang hướng về phía căn lều, dừng lại một chút, nghe ngóng. Rồi tiếp tục bước tới. Nếu nó bước vô, hai tròng mắt sáng rực và nhe hàm răng nhọn hoắc ra thì ta sẽ đối phó như thế nào?

Bù Khú thu mình trong góc lều, nấp sau cây cột lớn. Tiếng chân lại nhích tới mấy bước. Hình như nó đã đứng ngay cửa lều. Bù Khú run rẩy. Anh chụp một thanh củi lớn ném mạnh về phía đó và hét lên thật to:

-A! a.a…

Một phút im lặng. Rồi tiếng chân lại vang lên nhưng cứ xa dần. Anh thở ra, áp bàn tay lạnh ngắt của mình vào chỗ trái tim đang hổn hển.

Anh thắp lên được ngọn lửa và thức cho đến sáng.

Khi mặt trời vừa lên, anh vội đi bắt thêm một mớ ốc sên và chuẩn bị hành trang lên đường.

Chiều hôm qua khi ngồi trên đỉnh núi anh đã nhìn thấy một con đường đất nhỏ nhưng khi anh xuống tìm nó thì nó biến mất và cây rừng rậm rạp đã làm anh mất phương hướng. Chính vì thế mà anh quyết định leo lên tảng đá cao để tìm lại con đường ấy.

Nó vẫn ở đó, Anh chọn một chỗ trống trải nhất để leo xuống nhưng chân đạp phải khe đá nứt làm nó vỡ ra. Anh trượt chân lăn xuống triền dốc, ngực và mặt bị chà xát trên đá dăm nhọn hoắc. Máu chảy đầm đìa trên mặt, trên ngực áo. Cuối cùng anh níu được một cành cây nhỏ rồi tìm cách leo lên hốc đá. Nhờ chút sương còn đọng trong những vết lõm trên mặt đá, anh thấm nước lau những vệt máu quanh mắt, đang che khuất tầm nhìn. Trong thao tác ấy anh nhận ra cánh tay trái của mình bị bong gân đau nhói và anh phải bấu mấy ngón tay lên cổ áo để treo cánh tay lên cho đỡ đau.

Anh ngồi nghỉ một lúc.

Đến giữa trưa anh lấy ba con ốc ra ăn với rau rừng rồi tiếp tục đi, được một lúc thì lạc vào một lùm cây rậm rạp đầy dây leo và bụi gai chằng chịt. Chưa bao giờ anh bị rơi vào trạng thái hoảng hốt như thế, cứ đi vòng vòng một lúc lại trở về chỗ cũ. Quần áo rách tơi tả và toàn thân bị gai nhọn cào xé rớm máu. Anh nằm lả người trên một tảng đá.

Chợt nghe có tiếng xe chạy, anh vội xé rừng đi về hướng tiếng động. Quả nhiên anh thoát ra được cái bát quái trận đồ kỳ lạ ấy. Anh đã nhìn thấy được con đường đất nhưng chiếc xe lúc nãy đã mất hút rồi.

Anh không biết đó là xe gì: xe đò, máy kéo, máy cày, xe của lính Sài Gòn hay xe bộ đội? Anh phục sau một tảng đá và chờ.

Đến tối mịt vẫn không thấy có chiếc xe nào nữa, và cũng không một bóng người qua lại. Bù Khú lại phải nhóm một ngọn lửa nhỏ và ngủ qua đêm trên hòn đá ấy.

Khi mặt trời vừa lên đã thấy chiếc xe đầu tiên xuất hiện. Đó là chiếc máy kéo của dân làm rẫy. Những người khác đi bộ, đi xe máy, xe đạp, vai vác rựa, cuốc, mang giỏ, đòn gánh. Bù Khú chờ thêm một lát xem có xe tuần tra hay xe chở lính Sài gòn qua lại không nhưng chỉ có thêm mấy chiếc xe rơ-mooc và máy cày.

Bù Khú tháo các mảnh bẹ chuối quấn chân, tìm cách cột lại chiếc dép đứt. Anh băng qua mấy lùm cây thấp để ra đường cái, cố hòa nhập vào đám người làm rẫy. Anh hỏi một cô gái nhỏ:

-Từ đây vô rẫy còn xa không em?

-Rẫy ở hai bên đường. Anh vô đây làm gì?

-Đi kiếm thằng em.

-Em của anh làm gì?

-Trồng đậu phộng. Ở sâu trong hẻm núi.

-Trong đó làm gì có rẫy. Trong đó là căn cứ của mấy ổng. Sao chân đi cà nhắc vậy?

-Đứt dép.

Cô gái ngó vô cái mặt đầy vết máu của Bù Khú, hai ánh mắt chạm nhau trong năm giây.

-Anh bị té hả?

-Bị ngã từ trên núi.

-Ai biểu leo núi mà mang dép lê? Người ta ai cũng mang giày vải hoặc dép râu.

-Em có đôi dép râu nào thừa không?

Cô gái chỉ tay vô cái chòi ở bên đường.

-Vô đó chắc có.

Bù Khú cám ơn và rẽ vô cái chòi nhỏ. Trong chòi có kê một cái giường tre thấp nhưng trống trơn. Bù Khú quan sát một lúc, thấy cạnh giường có đào một cái hố nhỏ rộng chừng năm tấc, chiều dài thì bằng chiều dài của chiếc giường tre, phủ đầy lá chuối khô.

Anh ngồi xuống giường. Lát sau người chủ cái chòi trở về. Đó là một thanh niên trạc tuổi Bù Khú, mặc đồ kaki xanh, đội nón cối. Chủ nhà hỏi bằng giọng Hà Tĩnh:

-Anh làm gì ở đây?

-Xin lỗi, tôi muốn hỏi thăm một việc. Có phải anh là… bộ đội không?

-Nhưng anh muốn gì?

-Dép tôi bị đứt quai. Anh có thể giúp tôi…

-Nhưng anh là ai? Tôi thấy anh không phải dân làm rẫy. Anh vô đây để đi trốn phải không?

-Tôi là tù vượt ngục. Anh có thể giúp tôi liên lạc với các cơ quan cấp ủy địa phương này không?

Người bộ đội ra hiệu mời ngồi và lấy nước trà ra mời khách.

-Anh ở nhà tù nào?

-Tân Hiệp

-Đơn vị nào?

-Thành Đoàn đặc khu Sài Gòn Gia Định.

-Thôi được rồi, anh cứ ở đây đi. Tôi sẽ giúp anh.

Người bộ đội lấy từ trong thùng đạn ra một đôi dép râu, đưa cho Bù Khú rồi cúi xuống cái hố cạnh giường moi từ trong đám lá chuối khô ra một nải chuối chín.

Bù Khú ăn cơm trưa ở đó và nằm nghỉ được một lát thì có một người làm rẫy đến, dẫn anh tới một khu lán trại thô sơ sâu trong rừng rậm.

Tiếp nhận Bù Khú là một cô du kích trẻ đang ngồi bên chiếc bàn tre, viết cái gì đó trong một cuốn sổ.

-Chào đồng chí.

-Chào em.

Cô gái ngước lên, nhận ra cái tay đau và những vết bầm trên mặt Bù Khú.

-Đồng chí bị sao vậy?

-Tôi bị rơi từ trên sườn núi xuống.

-Đồng chí ở đơn vị nào đến đây?

-Tôi vượt ngục.

Cô gái lè lưỡi, đặt cây bút xuống bàn, đứng lên, đến gần Bù Khú.

-Thôi chết rồi. Để em băng bó cho anh. Trước đây anh ở đơn vị nào?

-Thành Đoàn khu Sài Gòn Gia Định. Em có biết thành đoàn đóng ở đâu không?

-Cũng gần đây. Đi chừng nửa ngày.

Cô gái rửa các vết trầy trên mặt Bù Khú, rắc một ít bột sulfamide rồi treo cánh tay Bù Khú lên cổ bằng một cuộn vải gạc.

-Anh ăn cơm chưa?

-Ăn rồi. Ở ngoài kia có một cái trạm của bộ đội.

Cô gái đem cho Bù Khú một ly nước rồi đỡ anh nằm xuống giường.

-Ngủ đi. Chiều nay chú Năm sẽ gặp anh.

Bù Khú cảm thấy hơi ấm thật dịu dàng khi bàn tay cô gái đặt lên trán. Anh nhắm mắt lại.

*

Chú Năm là một người đàn ông trung niên, tóc muối tiêu. Ông bắt tay Bù Khú và rót hai tách nước trà.

-Tôi sẽ chuyển cậu về Thành Đoàn nhưng có lẽ mình phải làm một số thủ tục cần thiết.

Rồi ông đưa cho Bù Khú một tờ giấy rứt ra từ cuốn tập học trò.

-Cậu viết cho tôi mấy dòng lý lịch ngắn gọn.

Bù Khú viết xong, đưa cho người đàn ông. Ông ta đọc lướt qua rồi hỏi:

-Cậu bị địch bắt năm nào?

-Dạ, năm 1969.

-Vì sao bị bắt?

-Tôi định ám sát tổng thống Thiệu.

Người đàn ông đặt tách trà xuống, trố mắt nhìn Bù Khú.

-Có chuyện đó à?

-Đúng vậy. Tôi và ba đồng chí nữa. Đó là đêm giao thừa năm Kỷ Dậu 1969.

-Sao tôi không nghe ai nói. Cũng không thấy báo chí loan tin ấy?

-Vì nó bất thành. Chúng tôi bị bắt ngay từ phút đầu tiên. Và địch muốn ém nhẹm tin này.

Chú Năm gật gật, gõ cây bút bi vào thành bàn:

-Thôi được. Tôi chỉ ghi nhận. Chuyện này để Thành Đoàn làm rõ sau. Thế cậu vượt ngục bằng cách nào?

-Tôi lừa bọn địch đưa tôi đến sông Thị Vãi rồi nhảy xuống sông trốn thoát.

-Lừa bằng cách nào?

-Tôi giả cách dẫn chúng nó đến căn cứ của Thành Đoàn nhưng khi đến sông Thị Vãi thì tôi nhảy xuống sông.

-A! a… Có phải cách đây bốn năm ngày gì đó không?

-Dạ phải.

-Thì ra vì chuyện này mà địch bắn phá vùng núi phía Tây-Nam. Có đúng vậy không?

-Đúng vậy.

Người đàn ông cắn môi:

-Chuyện này khá nghiêm trọng. Tôi không tin là địch có thể dễ dàng bị lừa như thế.

Bù Khú hơi ngạc nhiên về câu nói đó, nhìn thẳng vào mắt người đàn ông.

-Vậy chú tin như thế nào?

-Tình huống khá phức tạp. Cần có sự phối hợp với bên tình báo quân đội.

Bù Khú ngửa mặt cười:

-A! Té ra đồng chí nghi ngờ tôi chứ gì? Từ ngày bị bắt đến nay tôi đã chịu tra tấn dã man, chết đi sống lại mấy lần, rốt cuộc liều mạng tìm đường về với Đảng, trong đầu tôi vẫn nghĩ rằng tôi sẽ được đón nhận trong vòng tay ấm áp của tình đồng chí chứ không phải để bị hỏi cung đâu. Tôi đã bị địch hỏi cung hàng trăm lần rồi.

-Cậu đừng nóng. Tôi chỉ làm đúng thủ tục.

-Nhưng tôi không phải là địch. Tôi là một đảng viên.

-Thôi, hãy gác chuyện “đảng điếc” sang một bên đi. Chuyện đó sẽ do dân chính đảng xử lý kiểm điểm. Không thuộc thẩm quyền của tôi.

Cổ họng khô rốc, Bù Khú bưng tách nước trà lên uống nhưng nó đã cạn queo, chỉ còn một cái xác trà dính trên môi.

-Thôi được, người đàn ông nói, cậu cứ yên tâm. Tôi sẽ thu xếp chỗ ăn chỗ ở cho cậu. Cứ ở đây một thời gian rồi Thành Đoàn sẽ đến nhận.

Nhưng ba ngày sau, vào lúc nửa đêm, khi Bù Khú đang ngủ thì có hai anh bộ đội đến, người nào cũng mang AK 47. Họ đánh thức anh dậy.

-Mời anh đi với chúng tôi.

-Đi đâu? Bây giờ là nửa đêm mà?

Lúc ấy “chú Năm” xuất hiện, tươi cười:

-Cứ đi đi. Cấp trên muốn gặp đồng chí.

Nhưng hai người bộ đội lại dẫn Bù Khú đi rất sâu trong rừng, giữa đêm mù mịt.

*

-Hãy nói thật đi. Anh là ai?

-Tôi là cán bộ Thành đoàn đặc khu Sài Gòn Gia Định.

-Anh có giấy chứng nhận không?

-Tôi hoạt động bí mật ở đô thị nên không có giấy tờ gì cả.

-Thẻ đảng của anh đâu?

-Các anh không hiểu gì về hoạt động bí mất ở đô thị cả. Giữa lòng địch làm gì có thẻ đảng? Ngay cả lễ kết nạp đảng cũng phải ngụy trang.

-Tại sao anh bị bắt?

-Tôi định bắn ông Thiệu nhưng bị lộ.

-Anh bắn như thế nào?

-Đó là đêm giao thừa năm Kỷ Dậu 1969. Lúc ấy toán vũ trang tuyên truyền của chúng tôi gồm bốn người vũ trang hai súng ngắn giấu trong túi quần. Nhiệm vụ của tụi tôi là tám giờ đêm 30 Tết đến Cửa Tây chợ Bến Thành để rải truyền đơn, treo cờ Mặt Trận và diễn thuyết tuyên truyền chống chế độ Nguyễn Văn Thiệu. Chúng tôi đã chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng, đã tập hợp tại Cửa Tây. Súng đã lên đạn, truyền đơn và cờ đã cầm sẵn trên tay, vừa định hành động thì thấy đám đông nhốn nháo. Bọn mật vụ xô đẩy đồng bào, vẹt đường, náo loạn.

Tưởng bị bại lộ, tụi tôi định chuồn thì tổng thống Thiệu xuất hiện. Tối đó ông mặc côm-lê đen, thắt cà-vạt đỏ sọc nâu, đầu chải bóng. Một sinh viên trong tổ hỏi: “Giờ sao, anh Năm?”. Tôi nói: ”Cơ hội ngàn năm một thuở. Chú em canh chừng mật vụ. Anh bắn.” Và tôi rút súng ra, nhưng chưa kịp bóp cò thì đã bị xô ngã xuống đất. Đám đông nhốn nháo, không ai biết chuyện gì đang xảy ra. Tôi và cậu sinh viên nọ đều bị bắt. Hai đồng chí kia chạy lẩn vào đám đông. Dường như ông Thiệu cũng không hay biết gì về việc ấy, vẫn tươi cười đưa tay vẫy chào những người đi chợ Tết.

-Thôi được, gác chuyện đó qua bên. Bây giờ tôi hỏi anh: tại sao anh dẫn địch về căn cứ cách mạng?

-Đó là mưu kế của tôi. Từ khi mới bị bắt họ vẫn thường dùng nhục hình để hỏi tôi về căn cứ Thành Đoàn nhưng tôi nói tôi chỉ hoạt động ở đô thị nên không biết. Lần cuối cùng tôi giả cách dẫn họ đến sông Thị Vãi để trốn.

-Sao anh biết ở vùng Thị Vãi có căn cứ Thành Đoàn?

-Vì ở trong tù tôi nghe nhiều đồng chí nói về căn cứ Thành Đoàn ở núi Thị vãi. Họ kể rất chi tiết.

-Nhưng ở vùng này có nhiều căn cứ quân sự quan trọng của miền Đông Nam Bộ. Anh có biết đó là tội tiết lộ bí mật quân sự không?

-Bí mật quân sự? Chứ không phải là bọn địch chỉ bắn xuống sông để truy sát tôi thôi sao? Bởi vì căn cứ của các anh ở phía Đông còn chỗ tôi nhảy xuống sông là ở phía Tây Nam.

Một khoảng im lặng.

Cán bộ quân báo lại nói:

-Anh không có một chút giấy tờ gì chứng minh, làm sao chúng tôi tin anh được.

-Sao anh không liên lạc với đơn vị gốc của tôi? Đó là Thành Đoàn. Nó cũng ở đâu trên núi Thị Vãi này mà.

-Thôi được. Nhưng trong khi chờ đợi, chúng tôi buộc phải tạm giữ anh.

*

Ngọc cười hô hố:

-Sướng nhé!

-Sướng chứ. Ít ra cũng không bị bắn bỏ.

-Sau đó Thành Đoàn có đến lãnh anh về không?

-Nửa tháng sau.

-Có bị hỏi cung lần nữa không?

-Thực ra chỉ là một buổi trò chuyện nhẹ nhàng. Họ hiểu mình. Có điều là họ cứ để anh ngồi chơi xơi nước.

-Trong bao lâu?

-Hơn nửa năm. Cho đến một ngày kia anh bị gởi đến một vùng đồng chua nước mặn.

3.TRẬN ĐỊA PHÁO

Đó là một nơi cách chỗ đóng quân nửa ngày đường. Một cái trảng cỏ lát, đầy nước phèn trong vắt nhìn thấu đáy nhưng trên mặt thì nổi đầy nhưng váng màu rỉ sét. Khi Bù Khú bước vô căn lều nhỏ thì thấy một chàng trai trẻ đang dùng một cái que chọc vô cái hộp gỗ lớn. Cậu ta không thèm ngước nhìn anh, tiếp tục trò chơi của mình.

-Chào đại ca, chàng trai lên tiếng, bị gì mà đến đây?

-Có bị gì đâu.

-Đại ca không biết đây là vùng pháo sao? Tới đây không chết vì rắn rít bò cạp thì cũng chết vì bom pháo.

-Thế cậu bị gì?

-Bị tội ăn vụng.

-Ăn vụng với mấy cô giao liên hả?

-Ăn vụng mì gói.

-Mì gói?

-Mì gói của thủ trưởng. Tối nào thủ trưởng cũng đợi mọi người đi ngủ liền lấy mì gói ra xào với thịt rừng, ngồi ăn một mình. Lần nọ, chờ cho ổng xào nấu xong, tôi liền hắng giọng. Ổng bước ra ngoài nghe ngóng, tôi lẻn cửa sau vô trộm đĩa mì xào.

-Như thế cũng không đáng để bị đày đến đây.

-Đúng vậy. Có điều vụ này đồn đại tùm lum, thủ trưởng mất mặt, tìm cách đì tôi. Ủa mà anh ở đâu mới về?

-Ở tù. Chờ kiểm điểm.

-Tốt quá, hai anh em mình ở chung cho vui.

Bù Khú ném cái ba lô con cóc xuống đất.

-Cậu tên gì?

-Năm Ngọ

-Cậu có cái gì trong hộp gỗ vậy?

Năm Ngọ cười không thành tiếng và cũng chẳng trả lời.

Bù Khú bước đến, sờ vào nắp hộp.

-Anh coi tí nhé?

-Coi chừng bỏ mạng.

-Lựu đạn hả?

-Mở ra đi.

Bù Khú mở nắp. Bên trong lúc nhúc toàn bò cạp đủ loại, đủ cỡ. Trong mấy giây đồng hồ, chúng trở nên hỗn loạn như bị khiêu khích. Giống hệt chúng đang bày binh bố trận. Chúng quần đảo như đang điều quân trong sa mạc. Những chiến binh giương càng lên. Một phút im lặng. Chúng nhìn ngắm Bù Khú, giận dữ. Dường như khi Bù Khú mở nắp hộp thì chúng đang làm tình và chúng đã bị phá đám.

Năm Ngọ bốc lên một con. Bù Khú nói:

-Coi chừng nó chích.

Năm Ngọ lật ngửa con bò cạp, chỉ tay vô phần đuôi của nó.

-Đốt này mang nọc độc, nhưng con này thì em đã lấy nọc ra rồi.

-Em nuôi nó bằng gì vậy?

-Sâu bọ.

-Có phải nó là loài duy nhất ở sa mạc sống sót sau những cuộc thử nom nguyên tử không?

-Có lẽ đúng. Khi người Pháp thử bom nguyên tử ở sa mạc Sahara, tất cả các sinh vật ở đó, kể cả vi trùng, đều bị tiêu diệt. Nhưng khi họ đến nơi để khảo sát thực địa thì đã bắt gặp những con bò cạp.

Bù Khú hỏi:

-Em muốn học gì ở loài bò cạp?

-Học cách sống sót. Ở chiến trường này không có bom nguyên tử nhưng có pháo 175 ly của Mỹ. Đó là những sát thủ rất hung dữ.

Trước đây Năm Ngọ học ngành nông lâm súc. Hắn học ba cái thứ quê mùa cục mịch. Lẽ ra hắn phải sống với ruộng đồng cua cá, rừng rú cây gỗ và gia súc nhưng lại sống với Việt cộng. Ở cái xó rừng này, ngoài nai, mễnh, heo rừng, thỏ đế, rắn rít và bò cạp… còn có những thằng như hắn, và một lũ trí thức thành thị, nhà văn nhà thơ, nhạc sĩ ca sĩ mỗi người ôm trước ngực một cái bong bóng, mang trên lưng một cái mai rùa, cõng trên lưng một cái vỏ ốc…

Bù Khú hỏi:

-Sao không làm kỹ sư mà vô đây?

-Em thất tình, đi theo Việt cộng chơi.

-Nhưng vô đây không phải để chơi. Có lệnh hai anh em mình phải “tăng gia sản xuất” trên cái vùng đồng chua nước mặn này đây.

-Trồng gì?

-Trồng lúa.

-Chỗ này là vùng duyên hải nước lợ. Sao trồng lúa được?

Bỗng nghe một tiếng “đùng”. Rồi “oành”. Năm Ngọ đẩy Bù Khú ngã xuống đất và anh ta cũng phóng vô miệng hầm.

-Chui xuống!

Anh ta kéo chân Bù Khú. Hai người rớt xuống một cái lỗ lõm bõm nước.

-Gì vậy?

-Ông “vua chiến trường”

Lại nghe “đùng, oành” rung chuyển khắp nơi. Đất giãy nẩy, nháng lửa, xà gỗ trên nóc hầm rung chuyển, đất vụn đổ xuồng rào rào, lõm bõm trên mặt nước.

-Cái gì là vua chiến trường?

-Đó là biệt danh mà Mỹ nó gọi loại pháo 175 ly này, còn mình thì gọi nó là pháo “đùng, oành”. Đùng là tiếng đề-pa còn oành là tiếng nổ khi chạm mục tiêu. Nó nhanh đến độ hai tiếng đó gần như đến cùng lúc, trở tay không kịp. Đạn 175 ly khoét một hố sâu chừng 2 mét, rộng 3,5 mét, sức công phá rất mạnh. Trận địa này Mỹ chơi toàn 175.

Dứt trận pháo hai người bò lên miệng hầm.

*

Rồi những đám lúa cũng mọc lên từ đất phèn giống như lửa cháy trên những viên sỏi.

Hai người không trồng lúa bằng cày bừa và trâu. Họ trồng bằng những mảnh bom pháo và những bàn tay trói gà không chặt…

Lúa lên như những đứa con đẻ non, da vàng, sức môi, mắt lé. Lúa như tóc vàng cháy trên đỉnh sọ những bộ xương nhi đồng Somali, những cây lúa ho lao, còi xương, khạc ra máu, ói ra mật vàng. Những cây lúa tả tơi rách nát.

Những thửa ruộng mắc dịch ấy chết khô, quắc queo như những cọng nhang cắm trên nghĩa địa đã bị gió rừng thổi tắt từ lúc nửa đêm, bây giờ chúng như những bóng ma vật vờ trên mặt nước phèn và ngã rạp trong những cơn gió ma quỷ hú rợn tóc gáy giữa đêm khuya khoắt…

*

Ăn trưa xong, mình mẩy lấm lem bùn đất, họ ngồi trên bờ ruộng hút thuốc lá.

Năm Ngọ hỏi:

-Có bao giờ anh đặt lại vấn đề về sự chọn lựa của mình không?

-Đặt lại để làm gì? Đúng hay sai thì cũng là sự đã rồi. Không thể có chọn lựa khác được. Chỉ cần anh ra khỏi bìa rừng là đã bị coi là đi chiêu hồi.

Một chiếc L-19 bay rất cao, cách xa những ngọn cây, có thể đó là chiếc máy bay thám thính không người lái.

Năm Ngọ rủ Bù Khú vô rừng hái đọt bứa về nấu canh. Bù Khú nói:

-Nấu canh với mắm ruốt hoài chán quá. Có cách gì cải thiện không?

-Em sẽ chỉ cho anh coi cái này.

Hai người cắt rừng đi một lát thì đến một khoảnh rừng thưa. Năm Ngọ ngồi xuống, vẹt cành lá, hiện ra một cái bẫy nhưng không dính con mồi nào cả.

-Đây là bẫy chồn. Nhưng đôi khi chỉ bẫy được chuột.

Không có mồi. Họ trở về. Vừa đến nhà đã thấy cô giao liên nằm đợi trên võng.

-Có chuyện gì đó, em gái? Bù Khú hỏi.

-Thủ trưởng mời hai anh về cơ quan “làm việc”.

Họ theo cô giao liên. Vừa ra khỏi nhà được mười lăm phút thì lại nghe “đùng, oành” mọi người phóng lẹ xuống hố bom, mình mẩy lấm lem, ướt sũng, nhưng vừa dứt đợt, đã phải tiếp tục chạy ra khỏi trận địa pháo.

Đến nơi, Thủ Trưởng hỏi:

-Tại sao các đồng chí lại trồng rau muống?

Năm Ngọ nói:

-Tôi là kỹ sư canh nông, tôi biết chỗ nào không trồng lúa được.

-Thì các đồng chí phải cải tạo đất chứ.

Bù Khú nói:

-Hai anh em chúng tôi được gởi tới đó không phải để tăng gia sản xuất mà để đi đày. Tại sao các anh lại đối xử với chúng tôi như thế? Chúng tôi phạm tội gì?

-Không có tội gì cả nhưng chuyện trí thức thành thị đi “vô sản hóa” là một cách để rèn luyện. Hồi trước đồng chí Nguyễn Văn Cừ cũng từng đi vô sản hóa như vậy.

-Đi làm ruộng mà gọi là vô sản hóa sao? Có phải làm công nhân đâu? Trước đây đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã đi tập làm công nhân ở các mỏ than chứ không phải đi làm ruộng.

-Nói tóm lại là đi lao động. Lao động cải tạo con người, củng cố quan điểm giai cấp.

Năm Ngọ hỏi:

-Thế sao các đồng chí không đi củng cố quan điểm giai cấp? Tôi thấy các đồng chí tối ngày ngồi ngáp vặt và đập muỗi trong khi anh em chúng tôi phải lao động cật lực trong vùng bom pháo.

Thủ trưởng bỏ mắt kính xuống bàn. Khu rừng này đầy lũ vẹt xanh mỏ đỏ. Bây giờ trong căn phòng này chỉ có một con, giọng của nó khàn đục.

-Mỗi người một nhiệm vụ. Chỉ xin nhắc các đồng chí: không nên ra khỏi bìa rừng vì sẽ bị nghi là đi chiêu hồi và sẽ bị bắn. Các đồng chí cũng biết mỗi lần có người chiêu hồi thì những người ở lại phải lập tức dời căn cứ đi nơi khác, vất vả trăm bề. Nào là phát rừng, xây dựng lán trại, chuyển vận vũ khí, lương thực… nào là…

Bù Khú không nghe hết câu, bỏ xuống bếp. Năm Ngọ cũng đi theo.

Bếp Hoàng Cầm. Đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng. Địt mẹ, vậy mà đêm nào thủ trưởng cũng lén xào mì, thật đáng nể.

Rừng đen kịt nhưng mặt đất thì sáng lờ mờ, có thể thấy được những cánh võng đong đưa, nghe được những tiếng ho khúc khắc, tiếng nói chuyện rầm rì.

Bù Khú và Năm Ngọ cột võng cạnh nhau nhưng chưa ai chui vô võng. Bầu trời xám đục như tro than, trăng sao lặn mất biệt sau tấm màn bít bùng ấy. Nhưng nhìn nó vẫn thấy một chút hy vọng, giống hệt người rớt xuống hang đá nhìn thấy một khoảng sáng trên đầu. Năm Ngọ đưa cho Bù Khú một viên kẹo the rồi vạch quần đái vô gốc cây. Bù Khú hỏi:

-Ở đâu em có vậy?

-Lúc nãy em chôm được trên bàn của thủ trưởng. Mất hai viên kẹo chắc lão tức lắm.

Năm Ngọ kéo sợi dây thun giăng mùng để chui vô võng. Hai anh em đi ngủ với viên kẹo trong miệng. Vị ngọt và chua của kẹo chanh làm cho giấc ngủ êm dịu. Có thể sẽ có những giấc mơ đẹp của những đứa trẻ lên năm.

*

Sáng sớm thức dậy đã thấy hai tay du kích đang làm thịt một con vật gì đó.

-Bắt ở đâu vậy? Năm Ngọ hỏi.

Chỉ cười. Không ai trả lời. Hai gã du kích này vừa thui xong con thú. Bù Khú và Năm Ngọ xúm lại. Tưởng chồn hay cheo, té ra là một con chó nhỏ. Hồi Bù Khú mới đến đã thấy nó lẩn quẩn dưới chân nhưng nó cứ lừ đừ, nặng nề vì cái bụng chướng của nó. Hình như nó bị sơ gan cổ trướng. Và hình như nó đã chết từ tối hôm qua, nhưng hai tay du kích tiếc của nên đem thui nó. Cạo lông sạch sẽ, phơi cái bụng trương lên như bong bóng căng cứng.

Tay du kích vừa đưa mũi dao vô lỗ rún của nó thì một vòi nước phọt ra, có mùi. Hắn cả cười, dùng bàn tay đè cái bụng con chó nhỏ cho nước phọt ra hết. Nó xẹp xuống và bị mổ banh ra.

Bù Khú bỏ đi. Năm Ngọ nói:

-Đem chôn đi. Đừng ăn.

-Có sao đâu. Một gã du kích nói.

-Virus của bệnh sơ gan cổ trướng sẽ lây sang người.

-Lây gì. Nấu chín lên là xong.

Năm Ngọ cũng bỏ đi.

Hai người trở về trận địa pháo của mình. Dọc đường họ ghé hái một bọc trái bứa chín và đọt bứa.

Bữa cơm chiều như thường lệ có canh đọt bứa nấu với mắm và mấy con cua đồng nhỏ như ngón chân cái được nướng trên lửa than. Năm Ngọ hỏi:

-Uống rượu nhé?

-Rượu đâu có?

Năm Ngọ đi lại phía xó nhà, dỡ bỏ tấm nylon, lộ ra một cái lu nhỏ, Anh ta dùng cái ca nhựa múc một ca nước vàng vàng đem lại bàn ăn.

-Rượu gì vậy?

-Rượu trái cây. Em tự cất lấy.

Bù Khú nhấp thử một chút thấy chua chua, cay cay, nồng nồng. Buổi chiều đó thật vui nhưng hai người không dám say vì sợ không đủ tỉnh táo để tránh pháo.

Năm Ngọ kéo trong hộc bàn ra một bộ bài Tây, xóc xóc mấy cái rồi đặt trên mặt bàn.

-Đánh tu-lơ-khơ chơi?

-Chia đi!

Năm Ngọ lại xóc bài nhưng Bù Khú giành lấy. Bàn tay phải lướt nhẹ trên mặt bàn, năm mươi hai lá bài trải đều như cánh quạt, rồi chúng dựng đứng dậy như những quân domino, chao nghiêng, rồi tự gom lại thành một cọc.

Bù Khú ủ nó giữa hai lòng bàn tay rồi những ngón tay của anh bấu lấy những lá bài, kéo chúng ra, rồi đẩy khít lại, rồi kéo ra như chiếc đàn phong cầm, cuối cùng anh đưa bàn tay phải lên, những lá bài ngã rạp xuống như những quân domino. Bù Khú hạ cánh tay xuống và gom bài lại.

-Đại ca thật trứ danh.

-Đồ bỏ. Bù Khú búng tay.

-Đại ca từng là dân chơi hả?

-Chú em có nghe danh Đại Thế Giới chưa?

-Ở Chợ Lớn phải không? Đại ca là thần bài ở đó hả?

Bù Khú đan hai bàn tay sau gáy, ngả người, phun một làn khói thuốc.

-Anh đùa thôi. Anh học chơi bài ở trong tù. Anh còn biết làm nhiều trò ảo thuật từ bộ bài này.

Rồi Mười Bù lấy ra bốn con ách: cơ, rô, chuồn, bích. Trở bàn tay một cái, bốn con ách liền biến thành bốn con già.

-Sao hay vậy, đại ca? Chỉ em với.

*

Buổi tối họ chui xuống hầm trú. Mỗi người một võng.

Sáng hôm sau khi Bù Khú còn đang ngủ thì đã nghe tiếng Năm Ngọ.

-Em đi thăm bẫy đây.

Bù Khú trở mình, ngủ tiếp, cứ lơ mơ như thế không biết trong bao lâu thì bị đánh thức bởi những tiếng “đùng, oành” liên tiếp. Đất cát đổ xuống hầm như mưa rào. Hầm rung chuyển dữ dội.

Tiếng nổ như tiếng thét giận dữ, đe dọa, quát nạt. Bù Khú phải rời võng ngồi thụp xuống mặt nước. Một mảnh pháo rít trên đầu, chém gãy một thanh cây rừng. Đất sụp xuống, đổ trên lưng Bù Khú.

Trận pháo kéo dài nửa tiếng đồng hồ. Khi nó dứt rồi mà tai của Bù Khú vẫn điếc đặc, không nghe thấy gì ngoài những tiếng o.o.. bất tận.

Rồi bỗng nhiên anh hoảng hồn, phóng lên khỏi miệng hầm, chạy về hướng đặt bẫy chồn.

Cả một vạt rừng tan nát, tơi tả, gãy vụn. Những trái pháo 175 ly tạo ra những hố sâu, đất đá trộn lẫn với cành cây.

Và…một mảnh áo đầy máu.

Đi thêm mấy bước nữa, một cái chân đỏ lòm còn mang chiếc dép râu. Lủng lẳng trên cành cây gần đó là một cánh tay cháy sém.

Và…một nhúm tóc.

Năm Ngọ ơi! Em mới hai mươi bốn tuổi, không cha không mẹ, không người yêu. Em là nhà trí thức trẻ. Em đi tìm cái gì trên rừng này vậy? Em bỏ thành phố, bỏ tương lại để đến cái vùng đồng chua nước mặn này trồng lúa sao?

Bù Khú ngồi khóc trên nhánh cây gãy. Hoàn toàn cô độc. Hoàn toàn lạc loài trong cái xó rừng hẩm hiu này, một mình một cõi, không ai hay biết, không chia sẻ cùng ai.

Anh lần mò bước giữa đổ nát. Anh đi tìm đồng đội mình. Thịt xương đã trộn lẫn với bùn đất và cành cây, rải rác khắp nơi, ẩn giấu khắp nơi, vùi lấp khắp nơi.

Anh tìm trong những tán lá cháy đen, những cành cây tơi tả. Anh tìm trong gai góc. Bàn tay đầy máu. Máu của chính anh, máu của đồng đội, và máu của rừng.

Tìm và nhặt. Và khóc. Cho đến khi bóng chiều phủ xuống.

*

Một mình một súng, Bù Khú nương theo ánh sao, băng rừng mà đi trong đêm bất tận. Chỉ thấy rừng và rừng, bóng tối và bóng tối. Suốt từ chạng vạng cho đến nửa đêm anh mới về đến căn cứ. Mọi người đã ngủ, chỉ có một chút ánh sáng ở trạm gác.

-Ai đó?

-Mười Bù đây. Tôi bị pháo. Năm Ngọ chết rồi.

Bù Khú bước qua khỏi trạm gác, đi thẳng đến cái lều của Thủ Trưởng vì thấy ở đó còn ánh đèn. Khi đến gần vách lá, anh dừng lại nhìn qua khe hở, thấy Thủ Trưởng đang lom khom xào xào nấu nấu.

Bù Khú đạp mạnh cánh cửa liếp. Khẩu AK 47 vác trên vai. Thủ Trưởng nhìn khẩu súng, hỏi:

-Đồng chí làm gì vậy?

Khẩu AK đổi tư thế, kẹp trong nách.

-Cậu điên hả? Biết đây là đâu không?

-Sao không? Tôi băng rừng một mình đến đây chẳng lẽ chỉ để nhìn thấy cái đĩa mì xào nổi tiếng của ông sao? Ông có biết là Năm Ngọ đã tan xác rồi không?

-Trong chiến tranh, chuyện đó cũng bình thường.

Bù Khú sấn tới, đá văng đĩa mì xuống đất.

-Bình thường hả? Đối với những thằng “cách mạng kiểng” như ông thì bình thường, nhưng với những người lính như chúng tôi thì đó là máu. Mặt đất đầy máu. Lá cây cũng đầy máu. Những mảnh áo và những đoạn tay chân cũng đầy máu.

Thủ Trưởng lau miệng bằng cái khăn rằn.

-Đừng quá xúc động. Không phải chỉ có Năm Ngọ đâu. Hàng trăm, hàng ngàn chiến sĩ đã hy sinh như thế.

-Đúng vậy. Nhưng trong số đó không có ông. Mãi mãi không có. Các ông đi kháng chiến nhưng các ông đứng trên đầu người ta. Địch muốn tiếp cận các ông phải bước qua xác của du kích ngoài mé rừng, sau đó phải đụng độ với bộ đội chủ lực, khi chúng đến được đây thì các ông đã chuồn mất rồi. Các ông được bảo vệ tầng tầng lớp lớp, được an toàn tuyệt đối.

-Nói bậy! Ở đây tôi là thủ trưởng.

-Ông đừng quan trọng hóa mình. Bởi vì cuộc chiến này không phải của các ông đâu. Cuộc chiến này là của những người lính, những người đã chết và đang chết. Các ông chỉ là bọn ăn theo.

Bù Khú cầm ngang khẩu súng trước bụng. Thủ Trưởng hoảng hốt lùi lại.

Bắn không? Ngón tay trỏ của Bù Khú nóng rực trên cò súng, tròng mắt muốn lòi ra, răng cắn vào môi bật máu.

-Đừng, đừng… bỏ súng xuống đi. Anh xin em…

Bù Khú chửi thề bằng một tiếng thét, rồi ném khẩu súng lên cái giường tre giữa hai người.

-Ông sợ chết hả? Còn tôi thì đang muốn chết đây? Bắn tôi đi! Ông có biết cách mở chốt an toàn không? Chắc là không. Vì có bao giờ các ông tháo ráp súng đâu, có bao giờ chùi súng đâu! Ông nói ông chống Mỹ cứu nước hả? Thế các ông có biết một băng đạn AK 47 có bao nhiêu viên không? Nòng súng bao nhiêu ly không? Người đời vẫn nghĩ các ông đang xông pha giữa lằn tên mũi đạn, vì nhân dân quên mình, nhưng thực chất ngày ngày các ông ngồi chơi xơi nước và đợi đến tối, khi mọi người đi ngủ thì các ông lấy đồ ăn tiêu chuẩn cán bộ cao cấp ra tự bồi dưỡng, người đời không hề biết rằng các ông đang sống mòn, đang thất nghiệp, đang tự lừa dối mình. Hãy trả lại công bằng cho những người lính đã chết và đang chết, đã chiến đấu và đang chiến đấu ngoài mặt trận.

-Thôi mà, bớt giận đi Mười Bù…bớt giận…

Bù Khú trào nước mắt. Anh với lấy khẩu súng, bước ra ngoài đêm. Và khi đối diện với bóng tối dày đặc, anh chợt nhớ đến mớ tóc đẫm máu của Năm Ngọ trên cành cây. Cơn giận lại lồng lên như ngọn lửa đang bị bóng tối chặn lại, không bốc cháy được.

*

Ngọc kêu lên như con thú bị thương, hai tay ôm mặt.

-Sao anh lại bước ra ngoài? Sao  không bắn? Em đang chờ một loạt đạn.

-Những thằng như vậy nhiều lắm. Chúng đầy dẫy trong rừng. Cho đến bây giờ chúng vẫn còn. Sinh sôi nảy nở như côn trùng. Em nghĩ sao nếu đem cuộc đời anh để đổi lấy một con côn trùng?

Ngọc nắm bàn tay của Bù Khú. Nó khô cứng, sần sùi như khúc rễ cây, nhưng nó vẫn còn chút hơi ấm. Dòng nước mắt trào ra trên má người đàn bà trẻ, nhểu xuống khúc rễ cây ấy thành những giọt mưa ngâu nồng ấm.

-Nếu anh không kể thì em không thể nào biết được, không hiểu một chút gì về anh cả. Chỉ là một người khách, vào uống ly cà phê rồi đi. Cuộc sống thật đa dạng. Và đời anh thật buồn. Còn buồn hơn cả cuộc đời em nữa. Cám ơn anh đã tâm sự với em. Và em cũng sẽ kể. Kể hết. Những mảnh đời ấy sẽ ráp lại, có thể là không vừa, nhưng nó sẽ thành một câu chuyện, thành một cuộc sống, dàn trải trong ánh sáng và cả trong bóng tối. Trong anh, trong em. Và trong mọi chúng sinh…

Nhưng bây giờ thì em chưa có tâm trạng để kể. Một lúc nào đó, tâm lý ổn định, em sẽ bắt đầu. Và câu chuyện có thể sẽ diễn ra trong  khung cảnh náo nhiệt một chút, chẳng hạn như ở vũ trường.

4.KHÁCH MÁ HỒNG

Người đẹp bước vào cái thế giới tím nhạt của đèn và những tiếng thét của giai điệu. Tiết tấu lập đi lập lại như điên. Những tiếng basse bùng bùng của thứ “rap” động kinh truyền dẫn cơn tâm thần quái gỡ, chạy vòng quanh đám con rối. Ngọc bước vào thế giới ấy, như hòn sỏi được thả xuống mặt ao và chìm lỉm, lẫn lộn giữa đám vảy cá lấp lánh của bầy thủy quái.

Cô cầm ly rượu đi một vòng đám người ngọ ngoạy như đang lướt giữa những đợt sóng động cỡn ngầu bọt.

Cô chọn một góc tối và hút thuốc lá.

Một người đàn ông ăn mặc lịch sự đến chào và mời cô ra sàn nhảy. Ngọc nói:

-Cám ơn anh, em không biết nhảy.

-Vậy em đến đây chắc có chuyện gì buồn?

-Em tính xin việc làm. Anh thấy em làm cashier được không?

-Nếu em làm cashier thì đêm nào anh cũng đến đây. Nhưng mà họ đã nhận em chưa?

-Chưa. Sáng mai em sẽ đến để phỏng vấn.

Sáng hôm sau, khi cầm lá đơn đến nơi, Ngọc mới biết rằng người ta chỉ tuyển nhân viên nữ từ 25 tuổi trở xuống nhưng Ngọc đã ba mươi, vừa tính rút lui thì trưởng phòng nhân viên bước ra.

-Này tiểu thơ. Chưa dự phỏng vấn đã về sao?

-Tôi không đủ tiêu chuẩn. Già chát rồi.

-Không sao, cứ ngồi xuống đi.

Ngọc ngồi ở ghế sau cùng.

Bốn cô thiếu nữ lần lượt được mời lên, người thì có bằng đại học, người có bằng C Anh văn. Tay trưởng phòng hỏi xã giao vài câu, con mắt cứ lấm lét nhìn Ngọc. Gã chỉ dành cho mỗi thí sinh kia không tới một phút thì đuổi về.

Khi Ngọc bước đến thì gã làm mặt nghiêm.

-Cho tôi xem hồ sơ.

Nhưng con mắt gã chỉ dán vào cái tên Ngọc và tấm hình bốn sáu. Ngọc hỏi:

-Có phải hồ sơ của tôi bất hợp lệ không?

Gã ngước lên nhìn Ngọc, xếp tập hồ sơ lại, đút vô ngăn kéo:

-Đối với Ngọc thì không bao giờ bất hợp lệ. Luôn luôn được chào đón.

Còn giám đốc vũ trường khi nhìn thấy Ngọc đến trình diện đã thốt lên:

-Tôi sắp phát tài rồi!

Ngọc hỏi:

-Bác thấy cái mặt cháu giống mặt ông thần tài hả bác?

-Mặt của cô sáng rực như miếng vàng bốn số chín.

*

Hôm đó gần như Ngọc không trang điểm. Lúc đi làm cũng vậy, chỉ make up phơn phớt một chút nhưng có vẻ như sức hút cứ tập trung vào quầy tiếp tân. Vé không đủ bán. Đàn ông bu tới quầy tán dóc mệt mỏi, một mình Ngọc tiếp đủ thứ rượu mạnh, càng uống mặt càng đẹp.

Có anh chàng nọ đêm nào cũng tới, không ra sàn nhảy mà cứ ngồi lì một góc quầy với chai X.O. Không tán tỉnh. Không quậy phá. Có lẽ người ta gọi đó là trồng cây si. Suốt một tuần cứ im như thóc. Câm như hến. Cuối cùng Ngọc phải lên tiếng.

-Chào anh. Tôi có quen một ông bác sĩ chữa bệnh câm rất giỏi.

-Tôi không bị câm. Tôi mắc bệnh tương tư.

-Ô, bệnh đó chữa dễ ẹc.

-Chữa cách nào?

-Tự trói hai tay lại bằng một sợi dây thừng,  đưa đầu dây cho người nữ đó nắm, dắt đi vòng vòng vài lần là hết bệnh.

Tối hôm sau không thấy hắn đến vũ trường. Mười hai giờ đêm Ngọc lấy xe ra về, đến ngã tư, vừa dừng đèn đỏ thì một chiếc Husky cặp sát bên hông.

Ngọc hỏi:

-Làm trò gì vậy?

-Tôi đưa Ngọc về nhà.

-Không được. Lũ con tôi chúng không chịu đâu.

Rồi Ngọc vọt đi. Hắn bám theo sau. Sát nút. Nhưng rất may là hắn bỏ cuộc khi Ngọc rẽ sang đường khác.

*

Đêm tiếp theo hắn lại đến. Lại ôm chai X.O ngồi ở một góc quầy. Hơn mười giờ đêm trời đổ mưa nhưng vũ trường vẫn đông khách. Nhạc rap dập ầm ầm. Ánh đèn chớp tắt như ma quỷ.

-Ngọc ơi! Hắn gọi. Cho tôi biết nhà Ngọc đi.

-Để làm gì?

-Để lui tới chăm sóc mẹ con em. Em đi làm tới khuya, ở nhà ai lo cho con em?

-Chúng nó quen rồi. Buổi chiều em dẫn hai đứa đi ăn, cho chúng nó lên giường, khóa cửa. Rồi em đi làm.

-Không được đâu. Lỡ có hỏa hoạn thì sao?

-Đã có hàng xóm.

-Nhà em có đầy đủ tiện nghi không?

-Nhà em nghèo lắm. Anh mà đến, em thêm mắc cỡ.

-Vậy thì anh cần phải đến.

-Nhưng em không đồng ý.

Hắn lại quay về với chai rượu.

*

Trời mưa càng lúc càng lớn. Khi về tới đầu hẻm thì Ngọc đã ướt sũng mặc dù có mặc áo mưa trùm kín đầu.

Hẻm ngập nước. Xe chết máy. Ngọc dắt xe không nổi, ráng sức mà đẩy nhưng hình như đang sụp phải một cái ổ gà rất sâu. Rấn tới một cái, mất thăng bằng, xe ngã xuống nước.

Từ trong bóng tối có người đàn ông bước ra, kéo chiếc xe dậy.

-Đi trước dẫn đường! Hắn ra lệnh.

Khi vào đến cửa nhà, Ngọc nói:

-Cám ơn. Nhưng anh về đi. Anh không được vô nhà.

Hắn đứng bất động. Chôn chân trong nước và trong cơn mưa xối xả.

Ngọc tựa xe vô vách ván. Mở cửa. Nước ngập lênh láng, cóc nhái lội lõm bõm, giày dép nổi lềnh bềnh khắp nơi.

-Bé Ti, bé Quỳnh đâu?

Lũ trẻ khóc ré lên:

-Mẹ ơi mẹ! Cứu con với.

Đèn sáng lù mù. Ngọc run lập cập.

-Các con đừng thọc chân xuống nước. Coi chừng điện giựt.

Lũ nhỏ cũng khôn. Chúng cố thủ trên giường và nước thì đang mấp mé.

-Đừng khóc nữa. Nước đang rút.

Ngọc với lấy cái đèn pin trên đầu tủ, bật sáng và cúp cầu dao điện.

Ba mẹ con nằm co ở một góc giường, trùm mền kín mít. Lũ nhỏ hết khóc nhưng Ngọc thì khóc. Những giọt nước mắt lặng lẽ lăn trong bóng tối lạnh cóng. Nhưng lũ trẻ không hề biết mẹ chúng đang khóc. Chúng mơ thấy mình đang thả những chiếc thuyền giấy trên một dòng nước đen ngòm.

*

Hắn làm nghề kinh doanh địa ốc, hai mươi sáu tuổi.

-A! Vậy là cậu nhỏ hơn tôi bốn tuổi đấy nhá. Phải kêu tôi bằng chị.

-OK. Nhưng chị phải đổi chỗ ở khác thôi.

-Cậu làm như tôi giàu lắm. Bị chồng bỏ, chưa đi ăn xin là may.

-Ủa sao hôm trước nói chồng chết.

-OK. Tóm lại là một mình nuôi hai đứa con.

-Thôi, không nói chuyện đó nữa. Bây giờ có một căn nhà nhỏ, người ta cho thuê giá một triệu đồng một tháng, nhưng mình có thể trả tám trăm ngàn cũng được.

-Ở đâu mà rẻ quá vậy?

-Chỗ quen biết. Mình đi coi nhà liền bây giờ nhá?

Cái “căn nhà nhỏ” mà hắn nói làm Ngọc hoảng hồn. Bởi vì thực ra nó là một căn biệt thự xinh xinh có cái sân nhỏ lát gạch Bát Tràng.

Ngọc chựng lại.

-Cậu giỡn mặt chị hả?

-Sao giỡn?

-Nhà này mà cho thuê tháng tám trăm ngàn hả?

-Vậy thôi. Người ta dư nhà, bỏ không cũng uổng.

Hai người bước vào trong. Ba phòng ngủ, một phòng khách, một nhà bếp.

-Chị nói rồi nhé. Chị chỉ có khả năng trả mỗi tháng tám trăm ngàn thôi.

-Không sao. Tôi sẽ thương lượng. Chắc chắn được. Sáng mai dọn nhà. Chị đưa chứng minh nhân dân đây. Làm hợp đồng.

*

Nhà không có nhiều đồ nên dọn một buổi sáng là xong. Ngọc hỏi:

-Hợp đồng đâu?

Hắn mở cặp da lấy bản hợp đồng. Chủ nhà là Trần Thị… giá thuê nhà là tám trăm ngàn một tháng.

Ngọc đưa tiền, nhưng hắn nói:

-Cất đi. Tôi đóng tiền nguyên năm rồi.

Hắn tấn công kiểu đó Ngọc chỉ có nước đầu hàng. Còn lũ con Ngọc thì “chiến thắng”. Chúng reo mừng khi vừa trông thấy căn nhà. Chúng chạy giỡn trong sân rất hào hứng, chúng gọi hắn bằng chú ngọt xớt.

*

Đó là con đường ngắn nhất dẫn đến cái giường.

Tuy nhiên chẳng hề có cuộc cưới hỏi nào cả. Chỉ là gá nghĩa tạm thời. Sang tuần thứ hai hắn hỏi:

-Vũ trường trả lương cho em mỗi tháng bao nhiêu?

-Năm triệu.

-Anh sẽ đưa cho em số tiền đó. Em nghỉ việc đi.

-Tại sao phải nghỉ?

-Ở nhà chăm sóc con cái. Đi làm khuya khoắt rất bất tiện.

-Em đã quen rồi.

-Nhưng anh không thích đêm nào đàn ông cũng bu lại tán tỉnh em.

-Chẳng có vấn đề gì. Vả lại em không thích ngồi không. Rất là chán.

Hắn im lặng. Nhưng vẫn tiếp tục đến vũ trường, ôm chai X.O ngồi một góc quầy.

-Tại sao em để thằng cha đầu hói đó nắm tay vậy?

-Em có dám chửi nó đâu. Chủ đuổi việc sao?

-Tại sao em đá lông nheo với cái tay thổi kèn trompette?

-Nhân viên vũ trường thường chào nhau kiểu đó.

-Tại sao mỗi lần cái thằng đi xe BMW ra về em thường hôn gió nó vậy?

-Thằng BMW nào?

-Còn giả bộ nữa. Anh thấy có lần nó chở em đi siêu thị.

-Thôi đi ông. Khách đến đây đủ hạng người. Nhớ mặt còn không nhớ nổi. Sao biết đi xe gì?

*

Ngày nọ giám đốc gọi Ngọc.

-Tại sao đêm nào cũng có một tay ôm chai rượu ngồi ở quầy tiếp tân nhìn chòng chọc vào khách vậy? Nó là gì của em?

-Dạ thưa chú, đó chỉ là khách quen.

-Nó có khùng không?

-Dạ không biết. Nhưng có chuyện gì vậy?

-Cái người đi xe BMW là phó công an quận, bạn của chú. Ông ta nói bị cái thằng khùng đó chặn xe dọc đường hỏi: Ê, thằng già, mày đã ngủ với con Ngọc chưa? Muốn chết hả?

Ngọc tức điên, sáng hôm sau hỏi hắn, hắn nói:

-Vô tư. Chỉ dọa chơi thôi.

-Dọa hả? Ông biết đó là ai không? Nhốt ông bây giờ! Nếu còn lần nữa người ta sẽ đuổi việc tôi ngay lập tức.

-Đuổi việc hả? Tôi chỉ mong có thế. Tôi không thích cô đi làm.

-Đi làm thì đã sao. Bao nhiêu người họ làm cái nghề giống như tôi.

-Cô biết nghề của cô người ta gọi là gì không?

-Là gì?

-Đưa người cửa trước rước người cửa sau.

Ngọc cười hô hố:

-Sao cậu ngu quá vậy. Bộ lâu nay cậu không biết tôi là gái điếm à? Loại chuyên nghiệp đấy.

Hắn chồm lên người Ngọc, bóp cổ.

-Câm ngay! Mày quên mày là vợ tao sao?

-Đừng có mơ. Cậu tưởng cậu thuê cho tôi cái nhà này là làm chồng tôi được sao? Ngay ngày mai mẹ con tôi sẽ dọn đi tức khắc.

-Đây chẳng phải nhà thuê đâu con ạ. Đây là nhà của tôi. Tôi tính tặng cho cô đấy.

-Cám ơn. Trong xã hội này căn nhà nào cũng có hai vợ chồng đứng tên cả. Tôi không ngu đâu.

Hắn nhảy ra khỏi giường, đến nằm ghế sofa. Ngọc mệt quá ngủ thiếp đi.

Gần sáng nghe có tiếng khóc. Khóc rúc rích như chuột kêu, rỉ rả như mưa dầm, ấm ức như con nít, vừa khóc vừa hỉ mũi sột soạt.

Ngọc cứ lờ đi, để mặc. Hắn ngừng vài giây, rồi khóc ồ ồ.

Ngọc muốn la lên nhưng sợ lũ con thức dậy nên nói nhỏ:

-Im đi. Cho người ta ngủ chớ.

Lập tức hắn nhào xuống đất, quỳ mọp. Chổng mông mà lạy.

-Anh xin lỗi em. Chẳng qua là vì anh quá yêu em, Anh sợ mất em. Anh sợ mất em lắm Ngọc ơi!

Rồi hắn lên giường, ôm Ngọc chặt cứng.

Coi như đêm đó Ngọc thức trắng.

*

Và hắn vẫn tiếp tục những trò ghen tuông cũ. Trưởng ban bảo vệ vũ trường mời Ngọc vô văn phòng:

-Có phải hắn là chồng của cô không?

-Dạ không. Nhưng hắn si tình. Hắn theo em cả năm nay, làm phiền em quá chừng.

-Vậy em có muốn anh trị nó không?

-Đừng đánh. Miễn làm sao cho anh ta đừng tới đây nữa là được.

Một giờ sáng, khi vừa thấy Ngọc dắt xe ra cổng hắn đã bám theo, nhưng chỉ đi được một đoạn thì hai bảo vệ đã chặn ngang đầu xe hắn.

-Xuống xe. Tao cần nói chuyện với mày.

-A! Hắn vênh mặt, tụi bay là người của con Ngọc chớ gì?

-Sao mày ngu vậy? Mày nhìn kỹ mặt tụi tao đi. Mày vô vũ trường cả tỉ lần mà không biết tụi tao là ai hả?

-A, tụi mày là bảo vệ.

-Đúng. Chuyện này không dính dáng gì tới cô Ngọc cả. Đây là chuyện giữa bảo vệ vũ trường và mày. Vì mày vô vũ trường quậy phá, xúc phạm đến khách của chúng tao nên phải trị mày. Hôm nay chỉ cảnh cáo thôi. Nếu mày còn tiếp tục quậy thì mày không còn đường sống đâu con ạ.

Một bảo vệ to như con tê giác xách hắn ném xuống đất. Người thứ hai lấy từ trong túi áo ra một chiếc kềm bấm, cắt lìa ống dẫn xăng chiếc mô-tô của hắn. Xăng trong bình chảy ra có vòi, tràn lan trên mặt đất.

-Xong rồi! Bây giờ mày có thể dẫn bộ chiếc xe về nhà được rồi đó.

*

Hắn không dám đến vũ trường nữa nhưng hắn gọi điện thoại. Khi Ngọc nhấc máy lên thì nghe giọng hắn.

-Chuyện gì vậy?

-Hiện giờ trước mặt em có những thằng nào?

-Thì khách thường lệ chớ còn ai nữa.

-Tôi nhắc cô nhớ: hoa đã có chủ rồi nha. Đừng có mà liếc mắt đưa tình, nắm tay nắm chân, thiên hạ sẽ đánh giá đấy.

-Yên tâm. Tôi đã có hai mặt con rồi mà.

Hắn cúp máy. Tưởng im, té ra ba mươi phút sau lại gọi.

-Trời ơi! Ngọc kêu lên, đây là điện thoại của vũ trường mà. Có gì gọi di động đi.

Rồi Ngọc cúp máy. Nhưng lập tức chuông điện thoại quầy tiếp tân lại reo.

-Không gọi di động được. Cô có mở máy đâu.

-Nội quy vũ trường cấm nhân viên mở máy di động trong giờ làm việc. Có gì về nhà nói.

Vậy là hắn hét lên trong ống nghe:

-Có phải thằng trưởng bảo vệ nó đang ôm eo cô không?

-Không. Tụi này đang làm tình.

Nói xong Ngọc cúp máy. Lại reo. Cúp. Reo. Cúp. Reo. Rốt cuộc Ngọc phải lấy ống nghe để ra ngoài.

*

Những chuyện nhảm nhí ấy kéo dài thêm hai tuần nữa thì Ngọc bị đuổi việc.

Dĩ nhiên hắn có gia đình của hắn và chỉ đến với Ngọc khi đã thu xếp xong mọi việc nhà, việc làm ăn của hắn. Ngọc không biết chính xác hắn đến lúc nào nhưng chị cũng chuẩn bị chờ hắn.

Hành lý không có gì nhiều, một cái va-li, vài cái túi xách và cặp sách của trẻ con.

-Mình dọn nhà đi đâu vậy mẹ?

-Về nhà cũ.

-Sao không ở đây nữa?

-Hết tiền thuê nhà rồi.

Lúc ấy hắn đến.

-Tôi chờ cậu đến để từ biệt.

Hắn ngồi ngay bậc thềm, châm thuốc lá, không nhìn mẹ con Ngọc cũng không nhìn vào nhà. Hắn ngó mông lung lên trời. Lúc hắn quay lại thì mặt đã đầm đìa nước mắt.

-Anh lạy em. Anh sẽ không bao giờ quấy rầy em nữa. Em muốn gì anh sẽ chiều nhưng xin đừng bao giờ bỏ anh.

-Hãy về với vợ con cậu đi. Tại sao tôi lại phải xen vào gia đình của cậu? Tại sao cậu quản thúc tôi như một tù nhân. Tại sao cậu làm khổ cả hai người đàn bà? Rốt cuộc sẽ là gì?

-Anh sẽ ly hôn và lấy em.

-Tôi không thích phá gia đình của người khác. Và thực ra thì tôi rất chán anh. Tôi không thể sống đời với một người như anh được. Thôi, không nói nhiều. Ta đi. Taxi tới rồi kìa.

Ngọc kéo chiếc va-li lớn và xách cái túi. Trẻ con ôm cặp của chúng. Bất ngờ hắn hét lên:

-Đứng im!

Và chạy thẳng ra cổng, khóa lại. Nhưng Ngọc và hai đứa trẻ cũng đã ra tới cổng. Ngọc sấn tới trước mặt hắn.

-Mở ra!

-Có giỏi thì đi đi! Tôi báo cho cô biết, đã dính với thằng này thì không bao giờ thoát ra được đâu.

Ngọc im lặng, chậm rãi quay vào bếp. Và quay trở ra với con dao chặt xương cóc-lết. Mặt chị tái xanh. Mất hết máu. Mặt lạnh như xác chết.

-Mở cổng!

Hắn cất chìa khóa vào túi áo. Ngọc dứ dứ con dao trước mặt hắn.

-Tôi bảo anh mở cổng, không tôi chém.

-Chém đi!

Lưỡi dao bay tới rất nhanh, rất dứt khoát khiến hắn không kịp né tránh, chỉ còn cách chụp lấy như một phản xạ.

Ngọc thu dao về định chém nhát thứ hai thì thấy máu túa ra từ lòng bàn tay hắn, chảy thành dòng xuống cổ tay, tưới xuống mặt sân.

Ngọc nói bằng đôi môi trắng bệt:

-Đưa chìa khóa đây!

Hắn đưa chìa khóa cổng cho Ngọc. Chị mở cổng, đưa hành lý ra và ném chìa khóa xuống sân. Chiếc taxi cũng vừa trờ tới.

Cuộc chia tay kết thúc. Có đổ máu nhưng không có án mạng.

*

Bù Khú Tiên Sinh ngồi nghe chuyện một cách bình thản. Ông nói:

-Thật ly kỳ.

-Đó mới chỉ là một trích đoạn.

Chiều đó Ngọc đóng cửa quán đi dự sinh nhật của một người bạn. Mười giờ đêm Ngọc mới về tới bến sông, ngang qua một quán cóc, thấy người bu đông thì ghé vào. Bù Khú đang ngồi gục mặt trên bàn, nồng nặc mùi rượu, trên trán có miếng băng cá nhân rỉ máu. Chủ quán là một người đàn bà trạc năm mươi, mông và vú rất bự, hai người có biết nhau. Ngọc hỏi:

-Chuyện gì vậy cô?

-Cha già mất nết. Nhậu mà thiếu tiền, lại còn quấy rối tình dục.

-Quấy ai vậy?

-Cô chứ ai.

Ngọc cả cười, vừa vuốt tóc Bù Khú vừa nói:

-Tiên sinh vất vả rồi!

Trong đám đông có tiếng xầm xì:

-Nhỏ nào vậy?

-Chắc con của lão.

-Không phải đâu. Bồ nhí đó.

-Trời ơi! Đó là cô Ngọc, chủ quán cà phê Cây Bàng ở ngã ba sông kìa.

Ngọc dìu Bù Khú ra cổng. Đám đông cũng tản đi. Hai người bước xiêu đổ trên lối mòn dọc theo bờ sông đầy gió lạnh buốt. Bù Khú tỉnh lại. Ngọc hỏi:

-Bóp vú chủ quán bị đánh lỗ đầu hả?

-Chỉ sờ mông thôi.

-Bố khùng quá. Có thèm thì về đây em cho sờ. Sờ làm gì mẹ già đó cho nó đánh.

-Anh yêu em nên không dám vô lễ.

-Xạo.

Nước triều bắt đầu lên, bước chân của nó ì-oạp trên bờ cỏ, chạm vào mấy gốc dừa nước.

-Có trăng phải không?

-Ừ. Trăng non.

-Anh thấy lối đi trắng mờ như trong chiêm bao vậy.

-Gió đang về.

-Gió buồn quá em ạ. Anh nghe như có tiếng những linh hồn đang vất vưởng trong lá dừa. Và sóng đang chuyển động cùng với gió. Lúc mọi người ngủ thì thiên nhiên thức, trò chuyện với nhau và với những linh hồn lạc loài.

Hai người về tới quán. Bù Khú nói:

-Sao không cho anh về cái am của anh?

-Anh xỉn quá không về được đâu. Té xuống sông là chết liền.

Ngọc dìu lão đến cái võng gai mắc ở chái nhà, đỡ lão nằm xuống và đi lấy cho lão cái mền. Bù Khú chìm trong cơn say.

Ngọc vào phòng, coi đồng hồ đã mười hai giờ đêm.

*

Rồi Ngọc chợt thức lúc gần bốn giờ sáng. Ngoài hiên có tiếng trở mình, Ngọc nhìn ra thấy có đóm thuốc lá, liền ngồi dậy.

Thấy Ngọc ra nhưng Bù Khú vẫn không nhúc nhích. Tiên sinh đang chìm đắm vào một cơn hoang tưởng nào đó không chừng. Ngọc bắc ghế ngồi cạnh võng, với lấy bao thuốc trên bụng Bù Khú, châm một điếu.

-Anh đang nghĩ gì vậy?

-Đang mù mịt, ngu muội.

-Anh có thấy em rất buồn không?

-Anh thấy từ khi mới gặp em. Em cũng như anh. Chúng ta có vẻ như từ một cõi nào đó lạc về đây. Chỉ có những lúc thật yên tĩnh như thế này chúng ta mới thấy mình sống. Tụi mình không thuộc về cái xã hội đông đúc chung quanh, chỉ khi nó đi ngủ, chỉ khi loài người về nhà của chúng, đóng cửa lại, bỏ trống thành phố. Chỉ khi thành phố rỗng, tắt lịm… thì thiên nhiên mới thuộc về mình, mới thức dậy giao tiếp với mình.

-Anh dậy từ lúc nào?

-Cũng đã lâu. Gió đánh thức anh dậy. Anh thấy hạnh phúc như đang nằm trong cái tổ của mình. Khi tất cả im lặng mình có thể nghe được những tiếng nói bí ẩn đâu đó.

-Tuổi trẻ anh sống thế nào?

-Anh rất sợ chết. Càng sợ càng muốn tìm hiểu nó.

-Anh đã tìm được gì?

-Anh thường đi một mình trong phố vào những buổi trưa im lặng. Ngày nọ anh bước vào một ngôi biệt thự cũ tưởng như bỏ hoang nhưng thực ra là có người. Anh nghe có tiếng đục đẽo gì ở sân trong. Anh đi chậm lại, ngang qua mấy gốc cây vú sữa. Hai người thợ mộc đang đóng cái quan tài. Anh liếc nhìn vào nhà, chỗ cửa lớn, thấy ông cụ đang ngồi ở đấy, bất động. Ông giương đôi mắt mờ đục nhìn hai người thợ đang đóng quan tài cho mình.

Ông đang nhớ lại quá khứ của mình hay đang ngồi chờ đợi cái chết? Hay ông chỉ ngồi đó, vô tri như một cái xác không hồn?

Buổi trưa khi hai người thợ đã nghỉ tay đi ăn cơm, ông cụ vẫn còn ngồi im nơi đó nhìn chiếc quan tài dở dang nằm ngoài sân, hai mắt cứ mở thao láo. Một con ruồi bay đến đậu lên lông mày ông rồi bò dọc theo sống mũi. Nó bò chậm chạp, bình thản như bò trên một tảng đá, nó dừng lại một chút nơi cánh mũi phập phồng rồi bò xuống cái má nhăn nheo đã trổ đồi mồi của ông cụ. Nó đậu ở đó rất lâu, chải chuốt lại bộ cánh rồi mới thong thả bò tới cái miệng. Nó thò cái vòi của nó vào khe mép, nơi đó có một tí nước bọt dẻo quánh vẫn thường ứa ra, và con ruồi hút lấy thứ nước ấy. Ông cụ dường như không hay biết gì về sự có mặt của con ruồi, ông cứ ngó đăm đăm vào chiếc quan tài.

-Sao lúc ấy anh còn trẻ mà anh lại quan tâm đến những chuyện ảm đạm như vậy?

-Anh muốn tìm hiểu xem ý nghĩa của cuộc sống là gì.

-Rốt cuộc thì nó là gì?

-Càng ngày anh càng thấy nó chẳng là gì cả. Cuộc sống là một cái gì rất nhảm nhí, nhưng hồi trẻ anh muốn tìm ý nghĩa trong sự nhảm nhí ấy. Anh tham gia vào những cuộc biểu tình chống chiến tranh. Cuối cùng anh lọt vào mắt xanh của Việt cộng và họ đã chọn anh. Anh hoạt động công khai ở Sài Gòn một thời gian thì bị bắt vô tù.

Ngọc vuốt mớ tóc lốm đốm bạc của Bù Khú Tiên Sinh, hôn rất nhẹ lên trán ông. Tiên sinh cũng ôm lấy người đàn bà trẻ ấm áp ấy. Họ im lặng một lúc.

Ngọc nói:

-Mặt trời sắp lên rồi.

-Anh không thích mặt trời. Mặt trời luôn đứng về phía đám đông. Anh thì thích cô độc. Khi mặt trời lên, cả loài người nhốn nháo, hối hả. Mặt trời kích hoạt những tội ác, những tham vọng, những ái dục. Cho nên anh thích đêm và sự yên tĩnh.

-Để hồi tưởng?

-Đôi khi là hồi tưởng, nhưng thường là rỗng không. Anh muốn đầu mình là một cái thùng rỗng.

5.SẾP LỚN

VÀ BẠN TRAI

Vũ trường! Nơi đó Ngọc đã đến, đã thấy và đã…thất bại. Đó là sự khác nhau giữa Ngọc và Julius Césare. Bởi vì cô đã gặp một gã Việt kiều.

Hắn ở Mỹ về Việt Nam nhiều lần, đi vũ trường, nhà hàng, du lịch nhiều nơi, muốn kiếm một cô gái đẹp đẹp, lấy làm vợ nhưng không gặp ai là hồng nhan tri kỷ.

Trong điện thoại di động của hắn có gần hai chục số của các em. Mỗi ngày nhận được tám chục cú điện thoại và tin nhắn nhưng nội dung giống nhau: “Anh cho em mượn năm triệu. Anh ơi hồi sáng em bị giựt điện thoại rồi. Trưa nay em phải đưa ba em vô bệnh viện. Má em nợ người ta mười lăm triệu, anh có thể cho em mượn đỡ vài ngày…” Hắn hoảng hồn, đổi SIM khác.

Lần này Bảo ra bưu điện gởi tiền về quê thì có cô gái đứng bên, hỏi mượn cây viết. Hai mắt vừa chạm nhau đã giựt mình.

-Chết rồi! Tôi đã gặp chị nhiều lần ở đâu đó.

Ngọc chựng lại mười giây.

-Coi chừng anh lộn người.

-Không lộn. Chị tên là Ngọc, hồi trước làm ở vũ trường Á Đông đường Trần Hưng Đạo. Đúng không?

-Tôi cũng nhớ anh rồi. Tên thì quên nhưng là Việt kiều Mỹ.

-Không sai. Tôi tên Bảo.

-Tại sao anh nhớ tôi?

-Vì hồi đó có anh chàng mê chị như điên. Bây giờ hai người sao rồi?

-Chỉ là khách qua đường. Cũng giống như anh vậy.

-Nhưng bây giờ tôi đã trở về.

-Về chơi hay làm ăn?

-Về kiếm vợ.

-Kiếm được mấy bà rồi?

-Chắc phải nhờ Ngọc giúp cho một tay.

-Có tiền cò không?

-Đương nhiên.

-Bao nhiêu?

-Ít thì vài ngàn đô, nhiều thì quỳ xuống, cõng về Mỹ làm thê tử.

-Được đấy. Vậy để tôi giúp.

*

Lần hẹn đầu tiên Ngọc dẫn theo hai đứa con. Họ ăn trưa trong một nhà hàng đường Ngô Đức Kế.

-Xin lỗi anh. Tôi chỉ muốn biểu dương lực lượng cho anh sợ chơi. Chào chú đi các con.

Nhưng chỉ có đứa con gái chào, còn thằng con trai thì tỉnh bơ cầm cái muỗng gõ gõ trên thành ly.

-Nó kênh anh đấy!

Bảo hỏi thằng bé:

-Sao cháu không chào chú?

-Chú muốn tán mẹ cháu phải không?

-Phải.

-Mẹ cháu đẹp không?

-Quá đẹp.

-OK. Quà đâu?

-Chuyện nhỏ. Cháu muốn quà gì?

-Nói đùa thôi. Người quân tử ai lại đi đòi quà.

Ngọc cười khúc khích:

-Con em vậy đó. Anh sợ chưa?

-Không sợ. Anh sẽ lấy em.

-Bộ hết người lấy sao về Việt Nam lấy gái già hai con?

-Xe Lexus mới chạy có 20.000 miles, còn tốt lắm.

-Máy thì con tốt nhưng thắng thì hư rồi. Đứng một chỗ thì thôi, hễ chạy là không thắng được. Dễ chết người.

-Không sao. Nếu em đồng ý, anh sẽ lái cái xe đó. Ngày mai anh phải đi thăm một đứa em gái. Nó bị giam ở trại Xuyên Sơn.

-Tại sao?

-Buôn bán ma túy.

-Sao anh để cô ta đi vào con đường ấy?

-Năm đó anh và má anh đi vượt biên, nó bị lạc. Lúc đó nó mới mười hai tuổi.

-Sao má anh không bảo lãnh?

-Năm mười sáu tuổi nó cặp với một thằng “ghi đề” rồi có con với thằng đó mà không cưới hỏi gì cả nên không bảo lãnh được. Chỉ còn cách gởi tiền nuôi nó. Lần thứ nhất: đòi mua xe. Rồi mất xe. Mua cái khác. Lại cầm xe vì đói. Phải gởi tiền về chuộc. Rồi chồng nó đụng xe chết người. Phải gởi tiền về bồi thường. Thực tế đó chỉ là chuyện bịa đặt. Thực tế là nghiện ma túy. Rồi buôn bán ma túy. Đi tù.

-Sao không nghe anh nói về ba?

-Sorry, đừng nhắc đến ba anh nữa.

*

Trại giam ở sâu trong rừng. Đi quanh co, đèo dốc. Đến nơi đã hai giờ chiều. Ngọc dặn Bảo:

-Anh đừng xưng là Việt kiều, sẽ bị quản giáo vòi tiền.

-Không thể được. Vì anh phải xuất trình passport. Và còn phải có quà họ mới cho em vô.

Nơi gặp là một căn phòng ẩm thấp và sơ sài. Tù nhân và thân nhân đều ngồi trên nền gạch bông cũ kỹ.

Cô gái quay lưng lại phía Ngọc. Chắc cô ta biết có người đến thăm nhưng không nhúc nhích. Cô đang dùng một cây tăm xỉa răng chọc vào các khe nứt trên tường. Từ trong khe nứt ấy ba con rệp chạy ra một lúc. Chúng bò rất nhanh nhưng cô gái còn nhanh hơn, đưa cái móng tay vàng khè khói thuốc ra giết chúng, trây máu lên vách, đỏ lòm.

Bảo gọi:

-Nhung!

Khuôn mặt hướng ra ánh sáng. Ốm nhom, tái mét. Nhưng đẹp. Ngọc chào cô gái nhưng cô ta không nhìn ai cả. Cô ta chỉ nhìn vào khoảng không trước mặt.

-Họ kêu án bao nhiêu năm?

-Mười hai năm.

-Ngày mốt anh về Mỹ. Hôm nay anh có đem cho em chà bông, đường, sữa, cá cơm kho keo và một hộp underwear.

Cô gái có vẻ không hiểu, Ngọc nói:

-Đó là đồ lót nữ. Chị mua tặng cho em đó.

Một cái nhìn mệt mỏi, phòng vệ, không có cảm xúc.

-Hôm qua anh đi thăm con em. Anh có đưa cho bà nội nó một ngàn đô.

-Cám ơn.

Cố gái nói và quay lại khều mấy con rệp trong kẽ nứt.

Bảo cầm tay cô em, rồi quàng tay qua vai cô, hôn lên trán.

-Anh về. Ở đây phải ráng ngoan ngoãn, hy vọng dịp lễ Tết sẽ được ân xá. Vài tháng có bạn anh về, anh sẽ gởi quà cho em.

*

Lần hẹn thứ hai, Ngọc đi một mình. Gặp nhau trong một quán cà phê sân vườn. Bảo cứ ngồi im nhìn dòng nước chảy trên hòn non bộ.

-Sao không nói gì?

-Về chuyến này anh buồn quá. Tình cảnh của bé Nhung quá tuyệt vọng. Mười hai năm tù. Nó mới ở có một năm rưỡi mà người đã không còn ra người. Làm sao nó có thể chịu nổi một thời gian dài như thế. Phải chi năm đó nó không bị lạc.

-Một bé gái mười hai tuổi bị bỏ lại một mình, làm sao sống nổi?

-Em biết không, khi anh đến nước Mỹ, anh cũng chỉ là một đứa bé. Mẹ anh cũng phải đi giúp việc nhà cho người ta. Anh đi bán báo, đi hái trái cây.. nhưng bây giờ anh là một kỹ sư, lương 70.000 đô-la một năm. Anh cũng tự kiếm sống, tự lớn lên. Sao bé Nhung không tự lớn lên được?

-Theo anh thì sao?

-Anh và nó là hai cây mầm giống hệt nhau: cùng cha cùng mẹ, cùng nghèo khổ và thất học. Nhưng anh may mắn được trồng trong một vùng đất mầu mỡ, khí hậu trong lành, được chăm sóc bởi bàn tay của người làm vườn tốt. Còn bé Nhung bị rơi rớt trên một vùng đất khô cằn, phải tự giành giựt mà sống, giết nhau mà sống, kẻ mạnh hiếp kẻ yếu, kẻ có quyền chèn ép, xô đẩy kẻ thất thế vào đường cùng, vào tệ nạn, vào chỗ chết… rồi chính nó quay lại dùng luật pháp để hủy diệt nạn nhân của nó. Tất cả chỉ vì lỡ một chuyến tàu.

-Em cũng đã lỡ một chuyến tàu như vậy. Cách đây ba năm em có quen một chàng sinh viên nghèo. Anh ta tên Toàn. Hồi đó em làm nghề mát-xa trong khách sạn. Phòng trọ của em ở đối diện phòng trọ của Toàn. Đêm nào anh ta cũng thức rất khuya để chờ em về. Em mua mấy cái bánh bao và tụi em ăn chung với nhau. Đó là bữa khuya nhưng là bữa chính. Sáng, Toàn chỉ gặm một cái bánh mì khô, buổi trưa bếp ăn tập thể phát cho một tô canh có vài con tép và mấy lát bầu, chiều anh ta luộc một cái hột vịt ăn với cơm trắng. Quần áo thì em thảy ra tiệm giặt. Toàn nói: tiệm giặt phức tạp lắm. Đó là cái ổ lây bệnh. Rồi Toàn giành giặt đồ cho em. Quần áo hai đứa phơi chung trên sợi dây giăng trước cửa nhà.

Toàn khen em đẹp nhưng chỉ dám hôn bàn tay, còn em thì thương ảnh, tội nghiệp cho ảnh. Em nói: anh Toàn ơi, đừng nhút nhát quá như thế. Em còn gì để mất nữa đâu. Kiếp người phù du lắm. Rồi em ôm hôn ảnh. Rồi làm tình với nhau. Rất đơn giản, nhưng em thấy hạnh phúc.

Em đóng tiền học cho ảnh, mua cho ảnh một chiếc xe máy mười chín triệu. Thỉnh thoảng em được nghỉ một ngày, tụi em chở nhau đi mua sắm. “Diện” vào, ảnh rất bảnh. Đúng là một chàng thư sinh. Em ngắm anh ta. Rất yêu. Toàn cũng ngắm em, nói: rất hân hạnh được làm quen, cô học trường nào vậy? Em học đại học y khoa năm thứ tư. Khoa gì? Khoa tim mạch.

Ra đường em cũng rất đẹp, không thua kém ai. Không ai biết em làm nghề mát-xa. Đôi khi tụi em vô những nhà hàng sang trọng. Toàn dặn em: nói nhỏ, và nói ít thôi. Nhưng em không thích nói. Chỉ thích ngắm chàng thư sinh của em. Ngắm qua ngắm lại, chỉ muốn ôm hôn. Toàn nói: “Mai mốt anh tốt nghiệp thì em không phải đi làm nữa”.

Đó là chuyến tàu hạnh phúc. Nhưng em đã để lỡ nó.

Có một đêm Sếp Lớn của em đến kiểm tra tay nghề của nhân viên mát-xa. Ông có cái phòng riêng. Gọi từng cô lên. Mỗi cô mười lăm phút. Ai làm không đạt phải đi học lại một tuần do những người giỏi huấn luyện tại chỗ.

Sếp Lớn thích mạnh bạo nhưng đến lượt em thì Sếp nói: nhẹ nhàng, chậm rãi, cháu có bàn tay phù thủy. Là sao, thưa chú? Sếp im lặng. Mười lăm phút trôi qua nhưng sếp không để ý đến giờ giấc. Như thế buộc lòng em phải làm đủ mọi bài bản của một xuất mát-xa thông thường. Đối với những nhân viên khác thì đây là dịp để lấy lòng, hoặc chinh phục Sếp, nhưng em thì run sợ. Bộ đồng phục của em chỉ là một cái váy cũn cỡn không đáy và “gia tài” của em chỉ được giấu sau lớp vải mỏng của chiếc quần xịp nhỏ bằng bàn tay. Lúc đó em nghĩ đến Toàn và hấp tấp kéo cái quần đùi của Sếp lên chỗ thắt lưng. Nhưng ông ta nắm cổ tay em, giữ chặt.

“Em làm rất giỏi, cứ tiếp tục đi”.

Rồi ông xoay người nằm ngửa ra. Em nói:

“Đã quá mười lăm phút rồi thưa chú”.

Nhưng Sếp Lớn đã ghì em xuống.

*

Tất nhiên đó không phải là lần đầu tiên, nhưng em cảm thấy tan nát, sụp đổ như vừa bị phá trinh.

Em chạy vô phòng tắm, ôm mặt khóc. Ngay lúc ấy bên ngoài có tiếng điện thoại reo. Sếp đang nằm “phê” trên giường nên nhấn nút speaker.

“Đứa nào vô lễ vậy?”

“Dạ thưa, tay này mới đổi về phường chưa biết oai Sếp.”

“Nó đã làm gì?”

“Nó khám định kỳ thôi nhưng phát hiện một tiếp viên dẫn khách vô toa lét để ‘quan hệ’… dạ, bắt quả tang.”

“Má tụi bay! Khách sạn của tao có tới một trăm phòng mà. Tụi bay không biết dẫn khách lên phòng sao?”

“Dạ, tụi cháu rất bất ngờ.”

“Nhưng thằng đó tên gì?”

“Dạ… không biết!”

“Chó chết! Sao không coi bảng tên của nó?”

“Dạ.. cháu sẽ coi lại biên bản.”

“Coi đi. Và báo cho tao gấp.”

Chừng vài phút sau, điện thoại của Sếp Lớn lại reo.

“Karaoke Địa Đàng đó hả?”

“Dạ không. Đây là resort “Ốc Đảo” gọi từ Phan Thiết. Có chuyện rất nghiêm trong, thưa sếp.”

“Chuyện gì?”

“Một cô gái treo cổ trong bungalow.”

“Nó là con nào?”

“Gái gọi do khách đưa từ ngoài vào, chưa rõ lý lịch.”

“Sao tụi bay cho nó vào?”

“Thưa sếp, khách nói đó là bạn gái của khách.”

Sếp hét lên:

“Quản lý đâu?”

“Đang làm việc với công an.”

“Dẹp đi! Bảo nó đến gặp tao gấp!”

*

Đó là những rắc rối của lão Sếp Lớn nhưng lúc ấy em đếch cần biết. Trong lòng chỉ có thù hận. Em tắm rất nhanh, thay đồ, lấy giỏ xách rồi xuống lầu. Quản lý phòng mát-xa hỏi:

“Sao giờ này đã về?”

“Tôi bỏ việc.”

Rồi đi thẳng ra cửa. Em nghĩ là mình sẽ về, nhào vào lòng người yêu khóc nức nở và kể cho anh nghe hết mọi chuyện, nhưng liền sau đó đã thấy mình ngu xuẩn. Em tạt vào một quán nước vỉa hè. Xe cộ xoay vòng quanh em, trình diễn vũ điệu man rợ của nó. Em thì đông cứng như một tản nham thạch vừa chảy ra khỏi miệng núi lửa và đã nguội ngắt dưới thung lũng. Đi đâu? Làm gì? Nói gì? Ly cà phê bị hất xuống đất, vỡ nát. Chủ quán quay lại, ngạc nhiên. Em nói:

“Xin lỗi, tôi lỡ tay”.

Và cúi xuống nhặt những mảnh vỡ. Nhưng chủ quán đã lấy cái chổi ra. Để chị dọn cho. Có chuyện buồn hả? Gật gật đầu. Rồi mếu máo như cô bé mẫu giáo bị mẹ bỏ rơi. Để em đền tiền cái ly. Em đặt tờ giấy bạc xuống bàn và bỏ chạy. Một cây cầu nhỏ bắc qua sông. Em chỉ muốn trấn tĩnh bằng dòng nước phẳng lặng bên dưới và bằng những ngọn gió.

Nhưng em không thể để mặc Toàn chờ suốt đêm. Mình sẽ nói gì khi gặp? Không nói gì cả. Coi như không có gì cả. Mình đã cho Toàn một đời con gái rồi, có gì mà phải sầu thảm như vậy? Có lẽ nên xử sự bình thường như mọi ngày.

Và em quyết định quay về nhà. Nhưng căn phòng của Toàn đóng cửa, chắc anh đợi mình lâu quá nên đã ngủ. Càng hay. Mình sẽ có một đêm để suy nghĩ. Em mở cửa phòng mình và cứ để nguyên quần áo như thế mà ngủ. Nhưng không ngủ được. Em nằm đợi sáng.

*

Sáu giờ căn phòng của Toàn vẫn đóng cửa. Em đợi thêm mười lăm phút vẫn im lìm. Em mất kiên nhẫn.

“Anh Toàn ơi!”

Gọi ba bốn lần vẫn không nhúc nhích. Gõ cửa. Đập cửa. Có tiếng bước chân và cánh cửa hé ra. Một mái tóc dài, nhuộm vàng, uốn thành từng lọn.

“Xin lỗi. Tôi muốn tìm anh Toàn”.

“Toàn nào?”

“Đây là phòng của anh Toàn, bạn trai của tôi.”

“À…anh chàng sinh viên cao cao. Đi rồi. Dọn nhà đi hồi trưa hôm qua.”

“Đi đâu vậy?”

“Không biết. Xin lỗi tối qua tôi xỉn, rất mệt.”

Và cô gái đóng cửa lại.

Những người hàng xóm nói rằng Toàn đi nhận nhiệm sở ở đâu đó ngoài Đà Nẵng. Ngọc bấm điện thoại. Số điện thoại này tạm thời không sử dụng được, xin quý khách gọi vào lúc khác. Lúc nào? Sáng, trưa, chiều, tối, nửa đêm, gà gáy… lúc nào cũng vang lên cái câu nói đáng nguyền rủa ấy. Một ngày sau, ba ngày sau, nửa tháng sau. Vẫn câu nói ấy.

Chàng sinh viên nghèo ngày nọ đã biến mất, đã tự xóa sổ, đã tự “ken-xồ”. Nó đã thay sim điện thoại khác.

Đó là lần “nhỡ tàu” cay đắng và bẽ bàng nhất. Bây giờ, mỗi khi có chuyến tàu dừng lại là em sợ.

Bảo im lặng. Anh ngắm những con cá chép đang nổi trôi quanh hòn giả sơn. Ngọc ơi, những con cá này không suy nghĩ gì cả, chúng rỗng không và vô định. Em hãy nhìn chúng và quên hết những chuyện ấy đi. Đừng sợ.

6.NGƯỜI MẸ

TRỐN TRẠI

Họ giống như hai vợ chồng nhưng cũng giống như hai con khỉ. Khỉ già nằm trên chiếc võng gai lim dim mắt, khỉ trẻ ngồi kế bên vạch lông bắt chí. Nhưng Bù Khú không có chí, quần áo tuy cũ nhưng cũng không có rận, tiên sinh chỉ lốm đốm tóc bạc. Ngài lim dim, lắng nghe những ngón tay lướt trên da đầu mình tìm nhổ những sợi tóc sâu. Ngài đang tan chảy như một hạt muối thả xuống dòng sông. Ngài cảm nhận sự hòa nhập chậm rãi, dịu dàng và âu yếm. Ngài bồng bềnh như đám mây mỏng, như sương khói, lãng đãng quấn quít quanh những ngón tay mềm mại, những ngón tay vuốt ve từng sợi tóc, đùa nghịch với chúng bằng sự đằm thắm của người mẹ.

Bù Khú bay la đà xuống thung lũng, chạm lên những ngọn cỏ ướt và tan trong những giọt sương. Có một lúc bàn tay của Ngọc lướt nhẹ trên má. Rồi chợt ngài thấy có đôi môi chạm vào môi mình. Hơi thở ấm nóng của Ngọc thổi tắt ý thức mơ hồ của tiên sinh đang chực phiêu hốt vào cõi bất định, chạm đến biên giới của vô thức. Và ngài cảm nhận mình đang ôm một tấm thân mảnh mai ấm áp. Ngài hỏi: Em là ai vậy? Là kẻ trôi dạt. Em đến từ cõi nào? Từ vô định, vượt qua những gò đống tàn héo khô cháy của nhân gian. Đến được cái thế giới tĩnh lặng, vô thanh và đầy ảo giác này.

Người đàn bà trẻ cũng mất dần ý thức, áp má trên cái bụng phẳng lặng của tiên sinh và trôi đi trên dòng sông chảy ngược về trời.

Họ tỉnh dậy lúc trưa nắng và nhìn thấy một bà lão ăn mày đội cái nón cời rách tả tơi, quần áo đen nhẻm, u ám. Họ mở mắt nhìn ngắm bà lão nhưng không ai nói gì. Và bà lão cứ trôi dần tới như đang bị sóng biển xô dạt lúc xa lúc gần. Cho tới khi lão ăn mày chạm vào đầu võng thì Ngọc hỏi:

-Bác cần gì?

Bà lão bỏ chiếc nón lá ra, nhìn chăm chăm vào Ngọc, lúc ấy Ngọc mới thảng thốt. Cái gì đã biến đổi thân xác em đến như vậy hả Nhung? Không phải là ảo giác hay trong một giấc mơ, nhưng cô em gái của Bảo đã biến thành một lão già nhăn nheo, đen đúa, khô kiệt.

-Sao vậy?

-Con trai em chết. Em vượt ngục về đây.

Thằng bé ba tuổi đi tìm mẹ, ngang qua một căn nhà đang xây cất và một bức tường đã đổ ập xuống. Xác vùi trong đống gạch vụn và hồ vữa.

-Em trốn về nhưng không dám về nhà, chưa gặp con. Trong túi em không có một đồng nào. Không có gì cả ngoài tờ giấy ghi địa chỉ mà hồi đó chị đã cho em khi cùng anh Bảo đến thăm.

Ngọc tỉnh ngủ. Bù Khú Tiên Sinh cũng ngồi dậy.

*

Mất ba tiếng đồng hồ chở nhau trên chiếc xe máy cũ kỹ. Cuối cùng họ cũng nhìn thấy lá cờ phướn.

-Cháu xuống đây, ngồi quán nước. Bác xem tình hình thế nào sẽ ra hiệu cho cháu vô. Nhưng cứ đóng vai một người ăn mày.

Nhung chọn gốc cây có bóng mát, uống nước trong cái chai nhựa.

Bù Khú đã vào trong nhà có đám tang và xưng là cậu của bé Nhung. Ông ngồi uống trà để quan sát xem trong số khách đến viếng có công an giả trang không, rồi bước ra ngoài rào, giả cách đi tiểu để ra hiệu cho Nhung. Nhung kéo sụp cái nón cời, đi thẳng ra nhà sau gặp mẹ chồng đang ngồi thút thít trên bộ ván.

-Chị là ai? Mẹ chồng hỏi.

Nhung ghé sát tai bà:

-Con Nhung đây. Con trốn về thăm cháu nên phải giữ bí mật. Thế nào trên trại giam họ cũng theo dõi.

Bà nội thôi khóc, chỉ nói: “Tội nghiệp con.” Rồi đứng dậy đốt cây nhang đưa cho con dâu. Nhung đến bên quan tài con, đưa tay che mặt lại, nước mắt trào ra kẽ ngón tay, tiếng khóc bị chặn lại trong cổ họng làm rung chuyển tấm thân cằn cỗi. Người mẹ khô quắc ấy sụp lạy trước quan tài con không biết bao nhiêu lần, rồi nằm bẹp xuống chiếu, không muốn dậy nữa.

Bù Khú đến đỡ cô gái dậy, lau nước mắt và dìu cô ra nhà sau. Ông dặn bà nội:

-Đưa cổ vào trong buồng.

Nhưng trước cửa đã nghe chộn rộn. Có mấy người lạ vừa bước vô nhìn ngang liếc dọc.

-Người đàn bà khóc lóc trước quan tài lúc nãy đâu rồi?

Bà nội móc miếng trầu trong miệng ra cầm trên tay.

-Các ông là ai? Không biết nhà đang có tang sao?

Ngưới lạ nói xin lỗi rồi đi thẳng ra nhà sau. Lúc ấy Bù Khú Tiên Sinh đã dẫn Nhung chạy vào rừng cao su sau nhà. Một trong những kẻ lạ la lên:

-Nó chạy vô rừng rồi.

Lập tức ba kẻ lạ mặt băng vào rừng nhưng chỉ nghe tiếng xe máy mà không thấy người. Bọn họ liền chạy ra cổng lấy xe đuổi theo. Đường đất đỏ lởm chởm vụn đá ong, xe gầm rú. Bù Khú luồn lách trong rừng, bay qua những bãi lầy. Nhung ôm eo ếch chặt cứng, ông già nhìn thấy một lối mòn nhỏ trong đám mì liền băng đại vô, theo lối mòn của rừng khộp, thẳng ra đường nhựa.

Những kẻ săn đuổi dừng lại giữa ngả tư, không biết nên rẽ hướng nào.

Lúc ấy Bù Khú nhắm hướng Sài Gòn, hòa trong dòng xe cộ mà chạy. Lát sau có tiếng còi xe lửa, tiên sinh bèn tìm lối tắt phóng tới. Một cái ga nhỏ lộ diện trong nắng quái, cô quạnh như chốn không  người.

 

7.NHỮNG

ĐỨA TRẺ BỤI ĐỜI

Buổi sáng Nhung dậy sớm quét sân và nấu trà. Hai chú cháu ngồi ăn sáng dưới gốc cây bồ đề.

Bù Khú hỏi:

-Ba cháu đâu?

-Ổng ở Sài Gòn này nhưng con không dám gặp.

-Tại sao?

-Vì mỗi lần gặp là ổng la lối. Sai lính đuổi đi. Ổng nói: tao không có đứa con như mày.

-Bộ ổng làm quan lớn sao?

-Làm Giám Đốc Sở.

-Thế anh Bảo của cháu ở Mỹ về, ổng có tiếp không?

-Anh Bảo thì khác. Ảnh không thèm gặp mặt ổng. Ảnh nói: ổng không phải ba tao. Ổng đã bỏ mẹ, đi theo vợ bé. Có một bầy con khác. Gặp ổng làm gì. Gặp ổng thì phải giết ổng.

Bù Khú đưa ly cà phê cho Nhung nhưng cô gái lắc đầu, mặt tái xanh.

-Chú cho con một ly nước đường.

Bù Khú đi lấy đường cho nó, khi trở ra đã thấy nó run rẩy. Nó níu lấy cánh tay Bù Khú, nhoài người tới chụp ly nước đường uống ừng ực. Nó nằm xuống cái băng dài, co lại như con khỉ già. Bù Khú đến ngồi cạnh, giữ cánh tay nó, nhưng nó vẫn không hết run rẩy nên tiên sinh phải bế nó vào trong am, đặt lên giường và đắp mền lại. Ông ngồi với nó một lúc và vuốt tóc nó cho đến khi cơn co giật dịu xuống.

Nhung ngủ cho tới tối và Bù Khú không đánh thức nó. Ông lại võng nằm, lắng nghe nước triều bắt đầu lên. Khoảng nửa đêm, tiên sinh tỉnh dậy vì tiếng chân rượt đuổi nhau ngoài bờ sông. Rồi súng nổ. Con chó nhỏ sủa mấy tiếng rồi im. Tiếng chân cũng xa dần. Im lặng trở lại. Con nước mon men đến, trườn lên những bụi dừa nước.

Bù Khú nhìn ra bờ sông và thấy một cái bóng. Nó lom khom, dáo dác. Rồi nó đến sát võng của ông.

Bù Khú cứ nằm im hút thuốc. Ông hỏi:

-Nãy giờ trốn dưới sông phải không?

-Dạ.

-Mày làm gì mà bị lính nó rượt?

-Dạ… giựt đồ.

-Túi xách hả?

-Dạ, phải.

-Túi xách đâu?

-Con ném trả lại, tụi nó mới không đuổi nữa.

Tiên sinh xuống võng. Ra hiệu cho thằng bé ra sau nhà.

-Mày tên gì?

-Cháu tên Tùng.

Tiên sinh chỉ cho Tùng cái vòi nước, bảo nó tắm rồi trở vô bếp dọn cơm lên bàn. Tùng từ ngoài đêm bước vô bếp, lấy tay che mặt.

-Bỏ tay ra đi!

Hai bàn tay rời ra, để lộ một khuôn mặt biến dạng, tím bầm và đầy máu. Máu từ trong miệng ứa ra, không cầm lại được. Mắt bên trái quầng đen, trên trán có một vết thương dài như ngón tay, hai má rướm máu.

-Sao máu miệng trào ra hoài vậy?

-Con bị gãy răng. Họ đánh dùi cui vô mặt con. Còn những vết thương khác là do bị tát và đấm bằng nắm đấm.

-Sao chạy thoát được?

-Khi họ dẫn con đi ngang qua xóm lao động thì con chạy vô hẻm, thẳng ra bờ sông.

Bù Khú bới cơm cho thằng bé. Nó nhai nuốt rất khó khăn vì những đòn thù đều tập trung trên mặt. Bỗng nhiên nó hỏi:

-Bác có rượu không?

-Mày nghiện rượu hả?

-Con lạnh.

Bù Khú lấy xị đế đưa cho nó. Nó tu một hơi hết nửa xị.

8.TÌNH NHỎ

Số điện thoại lạ hiện lên trên màn hình. Một giọng Nghệ An vang lên bên kia đầu dây. Anh ta nói có một cô gái hành nghề mại dâm bị bắt về đồn công an muốn gặp Bù Khú qua điện thoại.

-Chào bác.

-Cháu là ai?

-Cháu là Đào đây bác.

-Quê cháu ở đâu?

-Ở Long Xuyên. Lúc trước cháu ở nhà trọ bên kia sông.

Lạy trời! Cố nhân đã trở lại. Tim đập hỗn loạn. Nó đang reo vui, nhưng cũng đang nhói lên, thảng thốt.

-Bác nhớ rồi. Vậy mà bác cứ tưởng con về quê lấy chồng. Bây giờ bác có thể giúp gì cho con?

Đào khóc.

-Cha con chết rồi. Bác đến bảo lãnh con về đi. Họ cho con về nhưng con không biết về đâu.

Tiên sinh thở dài, khoác áo ra đi. Như lão Đông-Ki-Sốt già.

Người ta dẫn cô gái ra, lạch bạch, nặng nề.

Đào ngượng ngập, khép nép, cố che giấu cái bầu, dù nó hãy còn nhỏ. Một bộ đồ ngủ bằng nhiễu màu mỡ gà, một nước da tái tái, hai cánh tay gầy yếu và khuôn mặt hốc hác. Có lẽ trên đời này chỉ mình Bù Khú Tiên Sinh còn nhận ra nét đẹp nơi người đàn bà trẻ ấy. Nét đẹp đó lấn át sự tiều tụy, xanh xao và mệt mỏi. Cơn xúc động xóa nhòa mọi hờn trách, mọi tự ái trong quá khứ. Tiên Sinh đỡ thai phụ ngồi xuống ghế, lấy trong bọc ra một quả táo đã chuẩn bị sẵn. Đào cầm lấy, ăn từng miếng một, nhỏ nhẹ như con thỏ gặm nhấm.

-Con xin lỗi bác. Về nhà, con sẽ thưa chuyện với bác.

Tiên Sinh đưa Đào vào một quán phở. Cô gái linh hoạt hơn. Cô hỏi:

-Con có bầu xấu lắm phải không?

-Bác không quan tâm. Bác chỉ biết hiện giờ bác đã gặp con và đang ngồi trước mặt con. Đó là điều rất quan trọng.

-Bác không nghĩ là con sẽ “báo đời” bác sao?

Tiên Sinh cười, cảm thấy nước mắt mình muốn trào ra.

-Thôi con ăn đi. Lát nữa mình sẽ đi mua một ít quần áo.

Họ về nhà lúc trời tối. Không ai hay biết sự có mặt của Đào trong cái am nhỏ ấy. Thằng Tùng đang ngồi ăn mì gói sau bếp. Bé Nhung thì đang nằm võng. Đèn sáng lờ mờ ở nhà trên. Bù Khú gọi:

-Mấy đứa đâu? Có chị chúng mày về đây.

*

Cúp nước. Những cái vòi mở sẵn. Thau và xô nhựa hứng bên dưới. Suốt ngày không có một giọt. Gần sáng nhểu xuống một vài sợi như nước đái thằn lằn. Nhưng nhánh sông thì đầy nước, đục, bẩn và lợ.

Đào xách xô nhựa, đi qua chiếc cầu gỗ. Trong vườn của ông già có cái giếng cũ bám đầy rêu nhưng nước ngọt. Tại đó cô gái hai mươi tuổi làm quen với ông già.

-Sao tên của chú nghe mắc cười quá vậy?

-Biết “Bù Khú” là gì không?

-Không.

-Là tối ngày la cà, nhậu nhẹt. Mất tư cách.

-Nhưng con thấy chú cũng đàng hoàng mà.

-Coi vậy chứ không đàng hoàng đâu. Cứ thấy người đẹp là bủn rủn tay chân.

-Hèn chi nãy giờ con thấy tay chú run.

-Chú bị bất ngờ.

-Vì sao?

-Vì lúc nãy trong nhà nhìn ra, thấy có cô tiên trên trời đáp xuống.

-Đâu có cô tiên nào đâu? Là con đó.

-Con có cái miệng cười rất đẹp.

Đào làm trò khỉ, nhăn mặt cười đủ kiểu.

-Cười kiểu nào cũng đẹp. Đối với chú, con gái chỉ có cái miệng là quan trọng.

-Quan trọng như thế nào?

-Làm quen với con trai cũng là cái miệng. Hôn tỏ tình cũng là cái miệng. Nhận lời cầu hôn cũng là cái miệng.

-Chú đang tán con phải không?

-Chú xin lỗi. Già rồi mà đi tán con nít.

-Nhưng con đâu phải con nít. Con là một người nữ, còn chú là một người nam.

-Vậy chú lấy nước cho con được không?

Bù Khú bỏ cái gàu bằng nan tre xuống giếng, kéo nước lên, đổ vào xô cho Đào. Lại bỏ gàu xuống giếng. Đào hỏi:

-Nhà chú có nước máy không?

-Có. Nhưng  cũng bị cúp. Nhờ vậy mà chú mới quen được con.

-Rồi chú sẽ phải hối hận.

-Tại sao?

-Vì con là một cô bé rất xạo.

-Xạo hay thực lòng không quan trọng. Quan trọng là gặp được con.

-Chú nói câu đó với bao nhiêu cô gái rồi?

-Nhiều lắm. Không kể xiết.

-Thế thì đâu có giá trị gì.

-Thì chú cũng xạo như con thôi. Chỉ có thời gian là không xạo. Hãy để thời gian giúp con.

*

Mấy tuần sau, nước lại cúp. Bù Khú ra đứng chờ ngoài giếng. Cô Lọ Lem nghèo lại bước qua cái cầu gỗ.

-Sao con không đem theo cái xô?

-Hôm nay con không lấy nước. Con đến để chào chú.

-Con đi đâu vậy?

-Con về quê, thăm cha.

-Cho chú đi theo với.

-Không được. Người ta sẽ hỏi chú là ai. Con biết nói sao?

-Con cứ nói chú là ông chủ tiệm may của con.

-Rồi tối chú ngủ đâu?

-Ngủ đâu cũng được.

-Muỗi nhiều lắm.

-Chú không cần ngủ.

-Nhưng mà không được. Có nhiều cái kẹt lắm. Con không đồng ý.

-Không đồng ý chú cũng đi.

-Biết nhà đâu mà tìm.

-Chỉ cần đến Long Xuyên là được rồi.

-Long Xuyên rộng mênh mông, sao tìm được nhà?

-Chỉ cần tới Long Xuyên và hỏi: có biết nhà cô Đào đâu không? Người ta sẽ hỏi lại: Đào nào? Đáp: cô Đào hoa hậu xứ Long Xuyên này. Là ai cũng biết.

-Thôi đừng tán nữa, Mắc cở lắm bố ơi.

Rồi Đào bỏ chạy qua bên kia sông.

*

Đào về quê bằng xe khách. Đến cầu Bến Lức giữa trưa nắng gay gắt. Bỗng nhiên nhìn qua cửa sổ thấy Bù Khú Tiên Sinh đang phóng xe máy chạy song song, còn đưa tay vẫy, cười toe toét. Đào thò đầu ra cửa xe.

-Trời ơi! Bố điên vừa vừa thôi.

-Hẹn ăn tối tại Long Xuyên.

-Bố về đi! Muốn chết hả?

-Muốn. Đến Long Xuyên rồi chết cũng không muộn.

Đào thụt đầu vô, nhắm mắt. Xe tung bụi mù. Bù Khú bị bỏ lại phía sau, cười ha hả.

*

Tiên Sinh đứng hút thuốc trên bắc Vàm Cống. Trời tím. Nước sông đen, lặng im. Mình đang đi tìm cái gì vậy? Tìm ai? Trong tâm thức chỉ còn một khoảng trời buồn. Cô bé hai mươi tuổi có cái miệng dễ thương ấy dường như đang đứng tách riêng ra một bên đời sống. Tiên sinh không còn thấy hồi hộp, náo nức như hồi sáng, chỉ là một nỗi trống trải mênh mông của hoàng hôn.

Và ông theo dòng người bước lên bờ. Ông chạy xe thật chậm, như trôi dạt giữa một thành phố xa lạ, cho đến khi nhìn thấy một quán ăn có cái sân rộng. Bù Khú tấp vào đó, bấm điện thoại.

-Chú đã tới Long Xuyên, đang ngồi ở quán Mù U.

-Kệ chú. Con không sẵn sàng tiếp chú đâu. Chú đưa con vào thế kẹt. Chú về đi!

-Không sao. Chú xin lỗi con. Cứ coi như chú đi Long Xuyên chơi một mình. Tối nay chú sẽ ngủ ở khách sạn, sáng về sớm.

Rồi tiên sinh tắt điện thoại. Lòng rỗng không. Cái khoảng trống ấy đã hiện ra từ lúc ông nhìn thấy bầu trời tím khi qua bắc Vàm Cống.

Màu tím của trời bây giờ đã biến thành đen, bao trùm lên những cụm mây lẻ loi đang hấp hối.

Vỏ chai lăn dưới nền nhà, ở đó có một con chó ốm yếu uể oải nhai những mảnh xương gà. Tiên Sinh không say nhưng đầu óc mờ mịt. Đường phố như những vệt sáng đục trôi nổi trong một thứ sương chiều u ám. Đào ơi. Chú xin lỗi con. Chú vẫn khát khao một cuộc hẹn liều lĩnh như vậy. Bên trong chú vẫn tồn tại một cuộc đột kích thầm lặng và dường như là cuối cùng của cảm xúc. Les derniers assauts des sens. Đó là một con quỷ lạ mặt, chính nó đã làm phiền con, đã làm con khó xử.

Tiên Sinh tựa ngửa vào thành ghế mây, mặt ngước lên trời, khói thuốc tản mạn, vỡ vụn trong cơn gió từ mặt sông. Rồi ông cảm thấy có một cái bóng đang ngồi trước mặt mình. Một cánh tay chống cằm, một mái tóc nghiêng đổ trên vai, và một cái miệng cười như hoa nở rực rỡ.

-Bố ơi! Đã hết điên chưa?

-Hết rồi. Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.

-Vậy là vẫn còn điên. Bố chở con về.

-Về đâu?

-Về nhà con.

-Con dám sao?

-Cứ về đi. Con sẽ thu xếp.

Đào ngồi phía sau, ôm eo ếch. Hai người đi qua những cánh đồng bát ngát và đầy gió. Những ngôi làng nhỏ lốm đốm sáng trong đêm tối dày đặc. Bù Khú cứ theo vệt sáng mờ của con đường nhựa mà đi. Đèn xe máy không đủ sáng. Nhưng tiên sinh không có gì phải vội vàng. Một lúc sau Đào chỉ tay vào những đóm đèn phía trước.

-Đó là xóm nhà con. Nhưng mình dừng lại ở đây một chút. Con muốn dặn chú mấy việc.

Hai người ngồi trên một gò đất phủ đầy cỏ mượt và cũng phủ đấy bóng tối.

-Lúc nãy con đi tìm chú bằng cách nào vậy?

-Nhỏ bạn chở.

-Rủi lúc nãy không gặp chú thì sao?

-Con biết chú sẽ đợi con.

-Tại sao?

-Vì con biết chú rất thương con. Sao chú thương con dữ vậy?

-Không dám trả lời.

-Sao Không?

-Vì chú sợ con sẽ hỏi: ”Chú đã nói câu đó với bao nhiêu cô gái rồi?”

Đào ôm ngang lưng Bù Khú, ngả đầu vào vai ông. Bù Khú nói:

-Chú sắp chết.

-Chết đi!

Bù Khú nằm ngửa trên cỏ. Đó là một cuộc hẹn được sắp đặt bởi Thượng Đế. Có bầu trời đầy sao, có bãi cỏ êm ái, có đêm yên tĩnh, bát ngát. Và có bóng tối mênh mông.

-Con thích những người đàn ông liều mạng như chú.

-Thực ra con cũng là một người rất liều mạng.

Và tiên sinh đặt một ngón tay lên môi cô gái. Đào cười, hàm răng huyền thoại của cô ánh ngời trong bóng tối. Rồi cô ngậm ngón tay của ông. Đó là ngày thứ nhất Đức Chúa Trời tạo ra vũ trụ. Ngài phán: “Nụ hôn hãy sáng lên!” Que le baiser soit! Và nụ hôn đã hiển hiện. Et le baiser fut. Đó là lời Chúa. Tạ ơn Chúa. Hallelujah!

9.THIÊN THẦN

CỦA MỘT CÕI TRỜI RIÊNG

Nhà có bốn người. Người thứ nhất là Bù Khú Tiên Sinh, ba người kia đều là dân lưu lạc, không chốn quay về. Bù Khú nói: ai muốn đi thì đi, ai không biết về đâu thì cứ ở lại. Thế là cả ba cùng ở lại.

Nhung và Tùng được giao nhiệm vụ chăm sóc vườn rau. Đào đi chợ nấu ăn.

Công việc hàng ngày của Bù Khú cũng nhẹ nhàng: ông thiết kế các trang quảng cáo cho tạp chí “Người Mẫu” và dịch những tờ hướng dẫn sử dụng mỹ phẩm từ tiếng Anh, tiếng Pháp ra tiếng Việt cho một cửa hàng bán mỹ phẩm. Ông dịch trực tiếp trên máy vi tính và lưu lại theo những thư mục được xếp loại chi tiết. Đó là nguồn tài chánh để duy trì cái gia đình mới được thành lập bên bờ sông.

Những thành viên trong gia đình đều ít nói. Hình như họ sợ ông. Ông rất tiết kiệm lời, thậm chí nhiều khi thay vì nói thì ông lại ra dấu.

Những đêm trăng tiên sinh thường mắc võng ngoài chái nhà nằm hút thuốc và lắng nghe con nước triều bò lên những gốc dừa nước. Nửa đêm, mọi tiếng động cũng đi ngủ với loài người. Tiên Sinh nằm nghe tiếng của thiên nhiên, của côn trùng. Chúng thầm thì, khép nép ở một góc tối nào đó. Chúng ru ông ngủ.

Gần sáng thường có cơn gió lạnh thổi đến, nhưng lần này ông nghe một chút hơi ấm trên ngực. Ông tỉnh dậy và biết ngay người nào đang áp mặt lên ngực ông.

-Con không ngủ được sao?

-Con mới ngủ dậy, thấy chú nằm ngoài này, sợ chú lạnh. Đã ba giờ sáng rồi.

-Con ngồi như thế có bị cấn cái thai không?

-Không sao. Nó mới hơn ba tháng.

Rồi Đào cầm bàn tay của Bù Khú đặt lên bụng mình. Ông xoa nhẹ lên đó, thấy nó tròn trĩnh và căng lên. Ông hỏi:

-Nó là con ai vậy?

-Con không biết, nhưng ước gì nó là con của chú.

-Sao lại con của chú được?

-Vì con biết hồi đó chú rất yêu con. Có lần chú gọi con là Quán Thế Âm Bồ Tát. Nhưng con không thể lấy chú được. Chú còn lớn hơn cha con hai tuổi. Con đành phải lấy một chàng trai mà con thấy cũng hiền lành, sạch sẽ. Con không hề biết anh ta là dân nghiện. Anh ta chỉ quan tâm đến thuốc phiện, khi nổi cơn, bằng mọi cách anh ta phải có thuốc, kể cả việc bán con cho chủ chứa. Họ gài thế và cưỡng ép con hành nghề trong hơn một năm nay, kể cả khi con đang mang bầu. Chú có nhớ hôm chú cháu mình chia tay trong quán cà phê không?

Hôm đó Đào nói:

“Thực ra thì con cũng yêu anh ấy, con đã suy nghĩ rất nhiều và thấy không còn cách giải quyết nào khác. Thôi, con về. Con không muốn kéo dài cuộc chia tay”.

Đào vừa đứng lên thì Bù Khú ôm mặt, nước mắt ướt đẫm hai bàn tay. Ánh đèn mờ trong quán đã che giấu được chúng. Tiên sinh ngồi một mình cho tới khi quán đóng cửa. Đêm đó ông không còn nước mắt. Một tuần sau Đào đổi SIM mới. Kết thúc mối quan hệ. Ông khóc một trận nữa. Khóc đắm đuối.

-Con thật có lỗi với chú khi vứt bỏ cái sim số điện thoại cũ.

-Đó chỉ là hoàn cảnh.

-Nhưng con vẫn ám ảnh về tội lỗi của mình. Sao con lại có thể đối xử như vậy với một người rất yêu con, coi con như thần tiên trên trời? Chú hãy cho con chuộc lại lỗi lầm đó nha chú?

-Bằng cách nào?

-Hãy yêu con đi. Yêu ngay bây giờ. Con muốn cho chú chút nhan sắc còn lại dù đã tàn tạ. Từ khi gặp lại chú, con chỉ muốn dâng hiến, để tạ lỗi…

Bù Khú cảm thấy ngực cô gái trẻ đã chạm vào môi mình, ông trôi dạt trong cái mùi thơm nhẹ nhàng của da thịt, ông lạc mất, mờ mịt tâm thức, bối rối và rung chuyển.

Câu hỏi ấp úng như lời van xin:

-Có cần phải làm như thế không?

-Con muốn tạ ơn chú.

Đào chồm lên võng.

-Hãy giúp con đi!

-Không được.

-Tại sao?

-Thực ra chú rất muốn. Nhưng không cần phải trả ơn như thế đâu con ạ. Chú yêu con. Và chú chỉ cần một bàn tay, hay chỉ một ngón tay cũng được. Con có nhớ cái đêm mình nằm với nhau trên bờ ruộng ở Long Xuyên không? Con chỉ ngậm một ngón tay của chú mà hạnh phúc đã ngân dài đến tận bây giờ.

Bù Khú ngồi dậy, Đào leo lên võng, vứt áo xuống đất.

-Nhưng con muốn!

Tiên Sinh đỡ Đào nằm xuống và hôn lên cổ cô gái. Cô gồng mình lên, vít cổ ông xuống, nói thầm vào tai ông:

-Người ta có thể làm tình bằng nhiều cách lắm. Chú biết mà. Chú đã từng có nhiều vợ, phải không?

-Nhưng con không phải là vợ chú. Con là thiên thần của một cõi trời riêng.

10.GẶP LẠI

THỦ TRƯỞNG

Khuôn viên của Sở Nội Vụ kín cổng cao tường, có lính gác bốn mặt. Lính gác hỏi:

-Có giấy mời không?

-Không. Bù Khú nói và chỉ vào Nhung, đây là con gái của Giám Đốc, tên là Nhung, nhờ anh báo lại.

Lính gác quay số điện thoại, nói mấy câu rồi ra hiệu cho hai người vào ngồi đợi nơi phòng khách. Mười lăm phút sau, một người đàn ông cao lớn xuất hiện.

Chủ khách nhìn nhau.

Một cơn chấn động làm đôi bên chựng lại. Một phút im lặng để trấn tĩnh. Giám Đốc mở lời:

-Mời mọi người vô phòng riêng của tôi.

Chủ rót nước mời khách.

-Trái đất thật là nhỏ bé, ông nói, nếu không sao chúng ta lại gặp nhau ở đây?

-Đó là sự bất ngờ của chiến tranh, kể cả khi nó đã chấm dứt.

-Thực ra tất cả những bất ngờ đều có quy luật của nó.

Bù Khú nói:

-Tôi không tin ở quy luật. Tôi nghĩ số phận của ông hoặc tôi hoặc bất cứ ai, không phụ thuộc vào quy luật mà phụ thuôc vào sự áp đặt của quyền lực lên nó. Quyền lực ném nó vào một hoàn cảnh nào đấy, một môi trường nào đấy và nó bị chi phối, dẫn dắt, đun đẩy đến hạnh phúc hay đau khổ, giàu hay nghèo, sống hay chết. Cũng giống như trứng cá sấu, nếu chúng được ấp trong một môi trường có nhiệt độ cao thì sẽ nở ra con đực, ngược lại sẽ là con cái. Như vậy giới tính của chúng – hay nói khác đi: số phận của chúng – được hình thành do sự áp đặt ngẫu nhiên.

-Lúc này có lẽ chúng ta không nên triết lý nữa. Sao rồi? Bây giờ ông làm gì?

-Làm dân. Còn ông? Bù Khú đốt thuốc lá, thái độ có vẻ khiêu khích. Dạo này có còn thức khuya xào mì không?

-Bây giờ thiếu gì sơn hào hải vị mà phải ăn mì gói như hồi ở trong rừng.

-Dẫu sao đó cũng là một kỷ niệm vui. Ông có biết ai đã từng vô phòng ông trộm đĩa mì xào đó không?

-Ồ, biết làm gì.

-Phải biết chớ. Vì người đó đã bị ông đày đến trận địa pháo để làm ruộng và đã chết tan xác nơi vùng đồng chua nước mặn ấy.

Giám Đốc gõ tẩu thuốc bằng ngà voi xuống bàn.

-Hôm nay ông đến đây chỉ để nói với tôi chuyện đó thôi sao?

-Tất nhiên là không. Tôi chỉ muốn trả lại ông đứa con gái. Nó đã làm gì thì ông biết rồi. Chẳng lẽ ông bỏ rơi nó sao?

-Tôi không bỏ rơi. Nhưng nó là tội phạm hình sự, tôi sẽ gởi trả nó về trại giam.

Nhung đứng bật dậy la lớn:

-Không được. Ông đã bỏ rơi mẹ tôi, bây giờ bỏ tôi nữa sao? Anh tôi về, sẽ giết ông đấy.

-Ba chỉ làm theo pháp luật con ạ. Con không thể trốn tránh cả đời được.

Bù Khú nói:

-Nhung ở nhà tôi đã hơn ba tháng, tôi đã tìm cách cai nghiện cho nó. Có lẽ ông nên tiếp tục, vì với quyền hành sẵn có trong tay, ông sẽ cứu được nó. Chẳng lẽ với con gái mình ông không tìm được một khung cửa hẹp hay sao?

  1. BÙ KHÚ

ĐI HỌC MÁC-LÊNIN

Ngọc hỏi:

-Có phải đó là lần đầu tiên sau ngày thống nhất anh gặp lại tay Thủ Trưởng đó không?

-Không. Vì những ngày đầu 75 anh làm việc chung với hắn. Đó là thời gian rất bận rộn của nhiều người nhưng lại rất trì trệ với anh. Tối ngày ngủ. Chiếc võng anh mắc trong góc phòng. Hai đầu cột vào hai thanh sắt cửa sổ. Nhắm mắt chập chờn rồi bị đánh thức dậy bởi những tiếng cãi vả.

“Căn nhà ấy phải ở bốn người.”

“Ô, thiếu chi nhà mà phải chung chạ. Tôi còn đem vợ con tôi về nữa.”

Anh lại ngủ chập chờn rồi bị đánh thức dậy.

“Đồng chí nào độc thân thì ở khách sạn. Mỗi người một phòng.”

“Tôi không ở khách sạn đâu. Tôi phải có nhà cửa đàng hoàng như mọi người.”

“Tại sao gia đình tôi lại phải ở trong một căn nhà nhỏ xíu vậy? Tại sao gia đình Thủ Trưởng lại chiếm nguyên cái biệt thự đường Phùng Khắc Khoan?”

“Vì ổng là Thủ Trưởng.”

“Thật mắc cười! Chúng ta đi làm cách mạng đâu phải để hôm nay về hôi của!”

Anh day trở sột soạt trên chiếc võng ny-lông. Tiếng cãi cọ làm anh ngủ không được. Anh cằn nhằn:

“Ồn quá. Các đồng chí làm ồn quá.”

Mọi người tản đi khi Thủ Trưởng bước vào.

“Này Mười Bù, không lo đi kiếm nhà. Chỗ này là cơ quan nhà nước, đâu phải nhà ở.”

“Ối giời! Tớ chỉ cần một chỗ để treo võng.”

“Có ba bốn cái khách sạn bỏ trống. Đồng chí về đó mà ở đi.”

“Người ta đang bát nháo. Tớ không thích giành giựt. Tớ ở chỗ nào cũng được.”

*

Mấy hôm sau Bù Khú nhận được một Giấy Giới Thiệu đi học triết Mác-Lênin. Khóa học kéo dài hai tháng. Bù Khú khóa cửa phòng, ra đi.

Hai ngày cà rịch cà tang trên xe lửa, ngủ gà ngủ gật suốt đêm trên chiếc ghế dựa làm bằng những thanh gỗ sần sùi, đi đái trong một cái cầu tiêu đầy phân người nổi lềnh bềnh, rập rềnh theo nhịp xe đi lắc lư, rửa mặt và súc miệng tại một cái vòi nước rỉ sét, chảy rỉ rả như sợi chỉ… cuối cùng cũng đến được trường Tuyên huấn.

Đó là một cái vườn hoang, đầy bóng mát và đầy tiếng chim. Những cây me tây cao vút, tàn rộng, phủ bóng mát và rải đầy lá me lấm chấm vàng trên một cái sân xi măng có nhiều kẻ nứt và ổ gà.

Nơi ấy hoang sơ như một khu vườn cổ tích. Bù Khú không thấy nhà cửa, không thấy cả bóng người hay mèo chó. Chàng chỉ nghe tiếng chim từ trên những tán lá cao rải xuống theo những cơn gió. Chàng bước đi trong tĩnh lặng, hạnh phúc vì thấy mình được lạc vào chốn thần tiên này, hoàn toàn cách biệt với thế giới bề bộn bên ngoài, hoàn toàn quên đi những cãi vã tranh giành nhà ở, quên đi những tiếng động rầm rập nhức óc của con tàu xuyên Việt, quên đi cái cầu tiêu rập rềnh cứt đái…

Chàng như vừa nhảy qua vực thẳm để đến được chốn thiên đường xã hội chủ nghĩa, một vùng tiểu thiên địa huyền thoại với cây lá, tiếng chim và những ngọn gió mát.

Chàng đi lang thang như thế trong khu vườn rộng mà quên mất là mình cần phải tìm ngôi trường Tuyên huấn của mình, cho đến khi chàng gặp một gã đản ông mặt tròn quay, tay cầm một xấp bìa cứng. Ông ta hiện ra trước mũi chàng lúc nào chàng không hay, giống như lão thổ địa.

Ông Địa hỏi:

-Cậu tìm ai?

-Tôi tìm trường Tuyên huấn Trung ương.

-Đúng đây rồi.

-Nhưng sao không thấy một cái nhà nào cả?

Người đàn ông dẫn Bù Khú qua khỏi một rặng cây và chi cho chàng ngôi biệt thự hai tầng rất rộng và cũ đến độ màu sơn vàng của nó đã ngả sang màu nâu của đất mùn, còn tường thì loang lổ những kẻ nứt, ở đó mọc ra những nhánh cây bồ đề con tua tủa, như cái vườn ươm treo lơ lửng giữa không trung.

Chàng thấy chúng rất ngộ nghĩnh, rất đáng yêu nên cứ đứng nhìn sững sờ. Người nọ hỏi:

-Cậu nhìn cái gì vậy?

-Có chim sẻ làm tổ trên tường đấy bác ạ.

-Cậu từ đâu đến?

-Thành phố Hồ Chí Minh. Thế cái nhà này là trường Tuyên huấn phải không đồng chí?

-Cậu đi theo tôi.

Lão Thổ địa dẫn Bù Khú vòng ra sau ngôi biệt thự, ở đó có một dãy nhà tranh vách đất lụp xụp trống giống như một trại lính.

-Trường của cậu đấy. Mới xây xong tức thì. Phòng to nhất là lớp học. Các phòng nhỏ còn lại là chỗ ở. Mỗi phòng hai đồng chí.

-Nhưng sao vắng hoe vậy?

-Vì cậu đến quá sớm. Ngày 6 người ta khai giảng, hôm nay mới ngày 3 cậu đã đến rồi. Hai ngày nữa người ta mới đến. Cậu vô nhận đại một phòng đi. Tối có chỗ mà ngủ.

Nói xong ông ta bỏ đi.

Bù Khú móc Giấy triệu tập học viên ra coi. Té ra cái thằng chó đẻ nào đó nó viết con số 6 giống hệt con số 4.

Bù khú lớ ngớ một lúc lâu. Như đứa con nít đi lạc, bị lừa lấy hết tiền bạc, túi xách, ngơ ngáo giữa xứ lạ quê người.

Tiếng chim lúc nãy mất tiêu. Các vòm cây cũng tàn héo. Lá me lá miếc vung vãi như rác trên nền đất nham nhở.

Chàng xách cái ba lô con cóc, rón rén bước gần đến dãy chuồng heo ấy trong tư thế phòng thủ của một kẻ đơn độc, chẳng có gì để tự vệ.

Cũng may chàng không gặp con heo nào và cũng không có mùi phân heo.

Căn phòng đầu tiên chàng bước vô có vẻ như là một lớp học vì nó rộng khoảng 60 mét vuông và có kê bốn dãy bàn làm bằng những tấm ván xẻ thô từ thân cây, chưa kịp bào cho nhẵn mặt, thậm chí có tấm còn cả lớp vỏ nham nhở với những con kiến xếp hàng đi từng đàn.

Các cửa sổ và cửa lớn đều không có cánh, tường thì bằng đất bùn trộn rơm rạ, trét vội vàng lên những khung tre còn chưa kịp khô. Mái tranh tuy khá dày nhưng lợp vụng về, lởm chởm như lông gà xước. Nền nhà cũng bằng đất nện nhưng vì chưa có dấu chân người dẫm lên nên mỗi lần bước đi có cảm giác như đất đang mùn ra đưới đế giày.

Bù Khú thở hắt, như vừa chui ra khỏi một đường hầm ngột ngạt. Lại thở tiếp mấy cái, bắn ra một câu chửi thề, theo cùng với bãi nước bọt thúi hoắc.

-Đù má! Trường Tuyên huấn Trung ương mới vừa xây xong, sao giống trại súc vật vậy ta?

Chàng vẫn đang mê sảng. Có lẽ tối qua mình ngửi cứt đái nhiều quá trên xe lửa nên giờ này đầu óc còn mê muội chăng? Lẽ nào những cán bộ ưu tú của đất nước lại phải đi học triết học Mác – Lênin trong những cái chuồng heo như thế này sao?

Câu hỏi cứ léo nhéo bên tai ngay cả khi chàng bước ra khỏi lớp học để đi tìm một chỗ qua đêm.

Phòng ở dành cho học viên cũng mái tranh vách đất như lớp học, nhưng rộng chừng 12 mét vuông, có kê hai chiếc giường tre nhỏ trải chiếu cói. Ngoài chiếc giường ra, trong phòng không còn một vật dụng nào khác kể cả một chiếc ghế để ngồi.

Sau một lúc nằm nghỉ mệt trên cái giường tre nhỏ xíu ấy, chàng trở dậy đi loanh quanh trong sân để tìm hiểu thêm khu vực mình đang ở, thì nhìn thấy một chiếc ghế ai vứt bên bờ rào cạnh chái nhà. Đó là chiếc ghế gỗ chỉ còn ba chân nhưng Bù Khú nghĩ rằng mình có thể sửa được.

Chàng đem nó vào phòng rồi mặc quần áo đi ra phố, định kiếm một cái gì đó ăn trưa và kiếm một khúc gỗ về sửa cái chân ghế.

Chàng mua mấy cây đinh, một con dao rèn bằng tay và một cái ly uống nước bằng sành.

Khi đi ngang dãy hành lang để về phòng mình, Bù Khú nhìn thấy một người con gái đang ngồi trong căn phòng bên cạnh. Cô nàng hơi thô kệch và lùn nhưng lại có mái tóc rất đẹp. Nó đổ dài xuống lưng áo, đen nhánh như một dải lụa óng ả.

Nghe tiếng bước chân, cô nàng quay lại. Bù Khú cúi chào. Cái khuôn mặt tròn như trăng rằm ấy cũng chào lại, kèm một câu hỏi, giọng Nghệ Tĩnh:

-Đồng chí ra sớm thế?

-Tôi tính lộn ngày. Thế còn cô?

-Tôi có việc. Tôi ra Hà Nội trước anh cơ đấy.

Chàng về phòng mình. Không có ấn tượng gì về cô gái. Chàng lấy cái dao sắt nặng trịch và mấy cái đinh ra, hì hục gọt đẽo đoạn gỗ kiếm được ngoài bãi rác và ghép xong cái chân ghế trong vòng một tiếng đồng hồ. Chàng ngồi thử, thấy khá vững vàng. Cái ghế này khi cần thì mình sẽ ngồi trên giường và dùng nó như cái bàn viết. Chàng nghĩ, có lẽ đây là căn phòng tiện nghi nhất trong khu “cư xá” của cái trường Tuyên huấn Trung ương này. Ít ra thì nó cũng hơn được những phòng khác một cái ghế.

Nhưng còn toa-lét?

Xung quanh không có ai khác ngoài cô nhà báo tròn quay đang ở sát vách. Bù Khú quyết định tự đi tìm cái cầu tiêu công cộng. Lạy trời nó đừng giống như cái cầu tiêu trên tàu lửa! Dẫu sao nơi đây đất rộng người thưa, đất lành chim đậu…lẽ nào… lẽ nào…

Cuối cùng, chàng đã đến, đã thấy và đã… bỏ chạy.

Tại sao bỏ chạy?

Bởi vì chàng đã gặp một cái lỗ đen.

Đúng ra là bốn cái hố đào sâu dưới đất, đặt bốn cái lu sành khổng lồ xuống, rồi kê hai tấm ván trên miệng lu. Không biết người ta đã phóng uế vào đấy từ đời ông tằng tổ nào (bởi vì cái trường Tuyên huấn này được mô tả là mới xây xong cách đây có mười ngày), vậy mà lu nào lu nấy đầy nhóc những phân người hôi thúi nồng nặc. Mấy cái thùng thiếc đựng tro để bên cạnh thì quá nhỏ và gần như không đủ tro để chứa, nên các vị “đại tiện khách” vừa giá đáo, chỉ cần liếc qua một phát là đã thấy hàng tỉ con giòi trắng hếu lúc nhúc trong những cái lu sành vĩ đại.

Nếu người nước ngoài mà biết được rằng ở ngay giữa thủ đô Hà Nội, tại một ngôi trường văn minh nhất nước là trường Tuyên huấn Trung ương, mà có những cái “lu sành” vô cùng độc đáo này, thì có lẽ họ sẽ không ngần ngại ghi nó vào danh sách những kỳ quan hiện đại của thế giới man rợ.

Rồi như một nhà hiền triết, Bù Khú cúi đầu đi thơ thẩn quanh sân trường trong nỗi ám ảnh khôn nguôi về những con giòi, và trong nỗi tuyệt vọng rằng mình không còn cách nào để khỏi phải cưỡi trên đầu những con quái vật tanh tưởi ấy mỗi ngày.

*

Mới hôm qua, sân trường còn vắng vẻ vậy mà sáng ngày 5/9, không biết người ở đâu túa ra sân như đàn cừu, chỉ khác là họ không có lông và sừng. Họ im lặng, tay cầm cái chén bằng nhôm có cái muổng cột dính vô chén bằng một sợi dây sắt. Bộ đồ nghề ấy làm được đủ thứ việc: múc cơm, chan canh, múc đồ ăn, đưa thức ăn vào mồm và cuối cùng là cạo đít nồi.

Đàn người đứng hai bên những dãy bàn gỗ. Im lặng chờ tiếng còi. Và còi ré lên. Những cái muỗng nhôm bắt đầu xông xáo. Chúng tung hoành bốn hướng, tranh chấp những miếng thức ăn ít ỏi. Những cái miệng cũng đóng mở lia lịa. Môi, lưỡi, răng, cổ họng. Tất cả những bộ phận ấy đều phát ra tiếng động: nhai, nuốt, húp xoàn xoạt, ừng ực, hít hà. Không ai nói chuyện. Không ai cười. Cuộc đấu tranh sinh tồn tuy âm ỉ mà quyết liệt đến nỗi đôi lúc Bù Khú bị đánh dạt ra khỏi mép bàn, phải nhai một thứ ngũ cốc vừa dẻo vừa cứng vừa có mùi ẩm mốc vừa có mùi bột sống. Đó là thứ hổ lốn gồm khoai mì ủ trộn với bo bo chưa được xát sạch vỏ.

Ở nhà ăn ra, nắng đã lên, lúc ấy trong cái sân rộng đầy lá, mới nghe tiếng của loài người lao xao, rầm rì. Vài tiếng cười. Vài tiếng khạc nhổ. Vài tiếng ho khúc khắc. Gió sớm lạnh và khô.

Bù Khú thấy nặng bụng. Anh đi tản bộ quanh sân một lúc thì nghe trong hội trường có tiếng hát:

“Kết đoàn chúng ta là sức mạnh

Kết đoàn chúng ta là thép gan…”

Rồi có tiếng ai đó gọi tên anh, bảo vô hội trường. Bù Khú bước nhanh tới. Ảnh Bác Hồ, cờ búa liềm và cờ đỏ sao vàng treo trên tường. Mọi người đều ngồi ghế. Người ta phổ biến nội quy và thời khóa biểu khóa học.

Giảng viên ngoài bốn mươi, đầu hói, đứng sau cái bục gỗ. Ông ta tươi cười, giọng nói trầm ấm, dứt khoát. Ông ta nói không cần giấy, chỉ có một chiếc micro và một ly bia. Uống bia. Cười khà khà. Trán bóng lưỡng. Đó là khuôn mặt của hạnh phúc, tự tin và chiến thắng.

-Thưa các đồng chí, chúng ta đang làm một cuộc cách mạng lớn, một cuộc lột xác vĩ đại. Chúng ta đang xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, (uống bia). Hiện nay chúng ta đang gặp những khó khăn do chiến tranh để lại, nhưng khi đánh thắng đế quốc Mỹ chúng ta đã đi được ba phần tư đoạn đường (uống bia). Chúng ta sẽ xây dựng một xã hội văn minh hiện đại theo kiểu mới. Lúc đó mọi người sẽ làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu. Sẽ không còn chợ búa, không có người bán và người mua. Và tất nhiên là không cần tiền tệ nữa (cười khà khà và nốc cạn ly bia. Lập tức từ dưới đáy cốc, bia dâng lên đầy ly, nổi bọt trắng xóa.)

Trong hội trường vang lên những tiếng nuốt nước bọt ục ục như gà kêu. Bù Khú nhìn cái “cục yết hầu” chạy lên chạy xuống của chàng học viên ngồi bên cạnh khi hắn ta đang cắm cúi ghi chép. Anh thấy có một chút nước bọt vừa ứa ra khỏi mép của hắn. Lúc ấy tiếng của giảng viên lại vang lên:

-Các đồng chí nhớ nhé! Không cần tiền tệ nữa! Còn vàng? Vàng thì sao? Nó cũng chẳng còn giá trị gì cả. Nó chỉ là một thứ kim loại không rỉ sét, có thể dát mỏng và người ta sẽ dùng nó để dát cầu tiêu (cười khà khà và uống bia).

Tiếng ngòi bút cạo lên mặt giấy nghe soàn soạt khắp nơi. Không nhìn thấy sự xúc động nơi học viên, cũng không ai ngạc nhiên hay thích thú. Chỉ thấy sự chăm chỉ cần mẫn và cam chịu. Bù Khú ngó sang hai bên, ngoái cổ nhìn dãy mặt người phía sau mình, thấy lờ mờ, cũ kỹ, rêu mốc. Vàng sẽ không còn giá trị gì nữa, sẽ chỉ được dùng để dát cầu tiêu. Vàng nào vậy? Một cái hố xí bằng inox lềnh bềnh những nước đái và phân người trên chuyến tàu tối hôm trước. Nó được làm bằng Inox. Inox cũng là một thứ kim loại không rỉ nhưng có màu bạc. Từ bạc chuyển sang vàng có khó gì? Chỉ trong một cái chớp mắt.

Buổi học chấm dứt với hình ảnh tráng lệ của cái cầu tiêu bằng vàng. Học viên lục tục bước ra khỏi hội trường. Bù Khú còn nán lại vì anh không thích chen lấn. Khi mọi người ra hết anh đứng dậy thì thấy ở cuối phòng có một lão già ốm nhom đang tìm cách máng cây chổi lên cái đinh trên vách.

-Bác ở tỉnh nào đến đây?

-Tôi ở đây. Tôi là nhân viên quản thủ thư viện.

-Cây chổi này của bác?

-Tôi quét sân.

-Bác có hứng thú uống với cháu một ly cà phê không?

Họ ra vỉa hè. Ở đó không có cà phê, chỉ là nước chè xanh.

-Cậu học cái gì trong đó vậy?

-Học chính trị hay triết học gì đó.

-Sao nói lơ mơ vậy?

-Vì cháu chỉ nghe chơi thôi mà. Chẳng hiểu gì cả.

-Thư viện của tôi có khoảng một vạn cuốn sách. Cậu có muốn đọc không?

-Còn tùy đó là sách gì. Bác có cuốn nào nói về Khổng Tử không?

-Cậu nghĩ sao mà hỏi sách Khổng Tử ở đây?

-Chỉ cầu may thôi.

Lão già nhắp một ngụm trà, đôi mắt lão rất sáng dù da mặt đã nhăn nhúm.

-Nhưng tôi có thể nói cho cậu nghe về Khổng Tử suốt ba ngày. Học thuyết của Khổng Tử mênh mông lắm. Cậu muốn nghe mảng nào? Xuân Thu, Đại Học, Trung Dung hay Luận Ngữ?

-Cháu chỉ muốn nghe về bi kịch của ông ta. Nghe nói suốt đời ông ta đi lang thang khắp nơi tuyền bá cái “đạo lớn” của mình nhưng không ai chịu nghe, cuối cùng chết trong nghèo khó. Có phải như vậy không?

-Có nghĩa là cậu muốn biết tiểu sử của Khổng Tử?

-Dạ không. Bác hãy nói về nguyên nhân bi kịch của ông ta đi. Tại sao ông ta thất bại? Tại sao một con người uyên bác như ông lại bị khắp nơi xua đuổi?

-Tại vì ông ta muốn dùng “lễ nhạc” để bình thiên hạ. Con người mới sinh ra không biết lễ nhạc nhưng đã biết “giành ăn” rồi. Khi tới tuổi dậy thì nó cũng không biết lễ nhạc nhưng đã biết “ái dục” rồi. Đó là bản chất của con người.

-Cháu lại nghĩ rằng “giành ăn” và “ái dục” chỉ là thú tính.

-Vâng nó là thú tính. Nhưng chính thú tính lại là bản chất của muôn loài, bao gồm cả con người. Bản chất của con người cũng giống như dòng sông: nếu chúng ta tìm cách san lấp nó, nó sẽ chảy sang hướng khác, biến thành lũ lụt.

-Cháu thấy Karl Marx cũng giống Khổng Tử. Ông không hiểu rằng “tư hữu” là một thuộc tính rất cơ bản của con người, vậy mà ông ta lại đòi xóa bỏ nó. Không ai có thể xóa bỏ được nó mà không rước lấy những thảm họa.

-Cậu khá lắm. Câu nói của cậu sẽ là một dự báo cho Việt Nam trong những năm tới đây. Hơn 2500 năm trước, Khổng Tử đã chết trong buồn khổ. Lúc lâm chung, ông đã nói với các đệ tử:

“Suốt đời ta mơ một thế giới đại đồng, mơ về một xã hội trong đó mọi người thương yêu nhau, không dối trá, không trộm cắp, ra đường thấy của rơi không nhặt, tối ngủ không cần đóng cửa…”

Hơn 2500 năm sau Karl Marx cũng từng có những giấc mơ như vậy. Và dường như cũng đã từng nói như vậy…

Bù Khú đốt một điếu thuốc đưa cho lão già, anh nói:

-Cháu đã ngồi suốt buổi sáng trong hội trường để nghe giảng bài nhưng cháu lại học được Đạo ngoài vỉa hè.

Trời nổi gió. Trên cao lá lại rụng xuống, rải rác như những cánh bướm run rẩy lấp lánh nắng khi chúng chao nghiêng trong vũ điệu thanh thoát của buổi sáng tĩnh lặng.

*

Bù Khú đi lướt qua khung cửa sổ của cô nhà báo Tròn Quay vừa lúc cô ta đứng ngóng ra ngoài sân.

-Đồng chí này! Hình như phòng đồng chí có một cái ghế phải không?

-Phải.

-Đồng chí cho tôi mượn tạm được không. Nhà trường mới bố trí thêm hai chị nữa ở chung. Lát nữa lại có khách.

-Được thôi, cô sang lấy ghế đi. Nhưng xong thì trả cho tôi nhé.

Cô nhà báo sang lấy ghế. Hai tay cầm hai chân ghế, vừa đi vừa ngắm cái chân gãy.

Bù Khú lo, không biết cái chân ghế có chịu nổi sức nặng của cô nhà báo hay không. Nếu cô ta là người “ý tứ” thì cô sẽ dành cái ghế cho một người khách nhẹ ký hơn.

Bóng nắng đã khuất trên sân trường. Bù Khú đi lại phía chỗ ở của lão già quản thủ thư viện.

Trong ánh sáng lờ mờ lúc chạng vạng, lão thức dậy khi nghe tiếng bước chân người đi tới. Lão chỉ mở hí một mắt, xoay trở trên chiếc võng ny-lông sờn rách treo dưới gầm cầu thang. Bù Khú ngồi xuống bên cái bàn thấp kê sát võng.

-Sao bác ngủ sớm vậy?

-Tôi có ngủ đâu. Tôi chỉ bắt chước mấy con gà, ăn cơm chiều xong liền vô chuồng. Cậu xem cái gầm cầu thang này có giống chuồng gà không?

-Sao bác lại ở dưới gầm cầu thang vậy?

-Vì đây là thư viện. Cậu xem có cái phòng nào trống đâu. Với lại tôi đâu có tiêu chuẩn để ở một phòng.

-Nhưng bác ngủ võng nhiều năm sẽ sinh chứng đau lưng,

-Không đúng, tôi cả đời nằm trên võng, thời chiền tranh cũng vậy mà thời bình cũng vậy. Giống như con gà lúc chạng vạng thì nhảy lên nhánh cây.

-Nhưng sẽ bị muỗi đốt.

-Khỏi lo. Có tí máu nào đâu mà nó đốt. Bên ngoài là da cóc, bên trong là cái khung xương và tí bầy nhầy. Tôi đã nằm dưới cái gầm cầu thang này hơn hai mươi năm rồi.

Lão bước xuống võng, bật quẹt thắp ngọn đèn dầu, máng trên cái đinh ở đầu võng. Ánh sáng làm cho gầm cầu thang trông giống cái hang hơn là cái chuồng gà.

Lão lục đục pha trà, rót ra tách mời Bù Khú.

-Hôm nay cậu học cái gì?

-Chủ nghĩa Xã hội Khoa học.

-Cậu có muốn nghe tiếp về Khổng Tử không?

-Hôm trước bác nói là Khổng Tử có một mối tình?

-Đó là mối tình với hoàng hậu nước Vệ.

-Có phải là nàng Nam Tử không?

Ông già chỉ cười.

Dưới gầm cầu thang lại có thêm một cái hốc, bên ngoài treo một bức tranh vẽ trên giấy Dó. Lão già lôi ra cái máy chữ rỉ sét, để qua một bên rồi lôi tiếp một cái bọc.

-Tôi viết sắp xong rồi.

-Viết về mối tình đó sao?

Lão già ngồi lại bàn, đối diện Bù Khú. Lão nói:

-Trong sử sách không thấy ai nói về mối tình đó, chỉ có người đặt câu hỏi tại sao Khổng Tử vào yết kiến hoàng hậu Nam Tử lâu như vậy? Suốt từ sáng đến chiều. Họ đã làm gì trong căn phòng ấy?

-Vậy theo bác thì họ đã làm gì?

-Nam Tử là một người đàn bà rất kiêu ngạo và đầy quyền lực. Thiên hạ đồn đại rằng bà ta rất dâm đãng. Sứ thần các nước đến Vệ, trước khi yết kiến nhà vua đều phải diện kiến bà. Bà đồng ý thì mới được gặp vua. Chỉ có Khổng Tử là từ chối cuộc gặp nên không được dùng. Tuy nhiên ngài cũng được cho ở tạm trong nhà khách của triều đình. Thấy trong nhà khách có cây đàn khánh, Khổng Tử bèn gảy mấy cung điệu. Tiếng đàn ngân lên trong đêm khuya khoắt khiến cho Nam Tử thao thức mãi. Bà lần theo hành lang, tới đứng bên ngoài nhà khách. Bà đứng suốt đêm trong sương lạnh để nghe đàn, một mình, một bóng, không ai hay biết. Vệ Linh Công thì đã già, đang ngủ say trong phòng.

Lão già mở xấp bản thảo, đưa ra trước mặt Bù Khú, chỉ ngón tay, bảo hắn đọc.

Sáng hôm sau Nam Tử phá lệ, cho mời Khổng Tử. Các học trò khuyên ông đừng đến, nhưng ông đã đến. Lúc ấy Khổng Tử đã năm mươi tuổi và Nam Tử là một phu nhân ngoài ba mươi, nhan sắc diễm lệ, quý phái.

Nam Tử hỏi:

“Sao ông dám không yết kiến ta?”

“Vì tôi đến đây chỉ để giúp vua Vệ, không phải để gặp bà.”

“Ông giúp vua làm gì?”

“Trị quốc.”

“Lấy gì để trị quốc?”

“Lấy Chu Lễ.”

“Hãy dẹp bỏ Chu Lễ đi. Ta sẽ phong cho ông làm tướng quốc, ông sẽ có dịp đánh Đông dẹp Bắc bình thiên hạ chẳng phải hơn sao?”

“Tôi không chủ trương chiến tranh. Tôi muốn trị thiên hạ bằng Lễ Nhạc.”

Nam Tử im lặng một lúc. Hai người ngồi đối diện nhau. Nam Tử nói:

-Trước đây ta cũng có một mối tình thơ mộng nhưng ta đành phải cắt đứt vì bị ép tiến cung. Đối với ta đó là điều bất hạnh. Ta sống trong cái lồng son này để làm gì? Thực tế là ta đang chết dần trong cái lồng này. Con người sống để làm gì nếu không có tình yêu?”

Bà ngừng lại, nhìn ngắm Khổng Tử. Ngài đang ngồi đối diện bà, đôi mắt to, mày rậm, trán rộng, hơi nhô ra như trán một con rồng.

“Này Phu Tử! Bà gọi. Ông chơi đàn hay lắm.”

“Tại hạ không dám.”

“Tối qua, ta đã đứng suốt đêm ngoài trời, trước cửa phòng ông để nghe ông đàn, ông có biết không?”

“Biết. Chính vì thế mà hôm nay tại hạ đến đây.”

“Vậy ông có hứng thú cùng ta hợp tấu không?”

Nam Tử đứng dậy, dáng đi uyển chuyển như con báo đen. Bà với lấy cây hắc tiêu trên vách.

Khổng Tử gảy cây đàn sắt, hoàng hậu Nam Tử thổi tiêu. Hết điệu này đến điệu khác, như nước chảy, như gió cuốn, như lời tỏ tình bất tận. Họ tấu nhạc quên cả thời gian. Họ bỏ cả ăn uống.

Bù Khú gấp tập bản thảo lại. Hắn nói:

-Mới đọc có một đoạn nhưng nó thật hay. Bác cho cháu mượn về phòng nhé?

-Không được. Cậu cứ đến đây. Tôi sẽ cho cậu mượn.

Ngay lúc ấy có một người bước vào cửa, tiến thẳng lại phía gầm cầu thang.

-Chào cụ, gã nọ nói, cụ cho cháu xin tí lửa.

Cậu ta đón lấy que diêm trên tay lão già, đốt thuốc lá, nói cám ơn và lui ra. Lão già nói:

-Nó là thằng bảo vệ. Nó thấy có người lạ nên vô thăm dò.

-Không phải nó xin lửa sao?

-Không. Thường ngày nó không vô đây, nhưng hễ có người lạ là nó vô. Nhưng không sao, tối mai nếu thích cậu cứ đến đây mà đọc.

*

Sáng hôm sau, trên đường đến thăm lão già, Bù Khú phải ghé phòng cô nhà báo để đòi lại cái ghế. Nó vẫn còn nguyên vẹn. Cái chân gãy vẫn không hề hấn gì. Bù Khú nói:

-Tôi lấy cái ghế nhé?

-Ghế nào?

Bù Khú chỉ vào cái ghế của mình.

-Cái ghế này này. Hôm trước cô mượn tôi đó.

-Nhưng nó là ghế của tôi mà.

Bỏ mẹ! Mình bị tâm thần rồi sao hả trời! Bù Khú cố trấn tĩnh. Và khi đã chắc chắn rằng nó chính là cái ghế của mình, chàng bèn bước đến, xách lấy cái ghế. Nhưng cô nhà báo đã đứng bật dậy, chụp lấy cái ghế một cách quyết liệt.

-Đồng chí làm gì vậy. Cái ghế này của tôi. Nó ở trong phòng tôi mà.

-Nhưng chính cô đã mượn của tôi, đã đem từ phòng tôi sang đây. Cô quên rồi sao?

-Tôi không quên. Nhưng tôi là người đầu tiên đến ngôi trường này. Lúc ấy cái ghế này ở trong phòng tôi.

-Nhưng chính tôi nhặt nó nơi bãi rác ngoài rào. Nó chỉ có ba chân và tôi đã sửa lại.

Cô nhà báo nhổ toẹt ra ngoài cửa sổ.

-Thế nhé. Tôi đi ra phố đây.

Đó là cách mà một nhà báo xã hội chủ nghĩa, một cán bộ tuyên huấn ăn cướp của người khác. Một lối ăn cướp khá ấn tượng. Và đầy sáng tạo.

Bù Khú thở một hơi dài, xua chuyện nhảm nhí ấy ra khỏi trí óc. Chàng nhớ đến lão quản thủ thư viện và muốn đến đó để đọc tiếp câu chuyện về nàng Nam Tử.

Nhưng ngay lúc ấy đã có ba người công an mặc sắc phục cũng vừa đến.

Dưới sự chứng kiến của ông hiệu trưởng trường Tuyên Huấn, họ lục soát gầm cầu thang và tìm thấy cái lỗ sau bức tranh. Tất cả sách ông già giấu trong đó đều được moi ra. Hiệu trưởng cầm một cuốn dày cộm, lật qua lật lại mấy trang. Gật gù, gật gù:

-Hồng lâu mộng với thanh lâu mộng. Lại chuyện đĩ điếm rồi.

Ông ta lại mở gói giấy đựng bản thảo của lão già. Gật gù, gật gù:

-Khổng Tử và NamTử… Nam Tử là thằng cha nào? Mấy cái tài liệu này ông lấy ở đâu vậy? Rất đáng ngờ. Ai mà biết trong đó chứa đựng những gì?

Lão già bị dẫn ra xe. Ông hiệu trưởng trở về văn phòng của mình, lập tức cho gọi Bù Khú lên trình diện:

-Anh về phòng thu xếp đồ đạc, ngay sáng mai rời khỏi trường. Tôi trả anh về đơn vị cũ của anh.

-Tại sao?

-Anh vi phạm nội quy nhà trường.

-Vi phạm như thế nào?

-Anh quan hệ với phần tử bất hảo trong trường.

-Nhưng ông ta là quản thủ thư viện mà. Tôi chỉ đến đó để đọc sách.

Hiệu trưởng chìa ra trước mặt Bù Khú tờ giấy quyết định trục xuất.

-Anh đem về mà trình với cơ quan của anh.

Nói xong ông ta bỏ ra khỏi phòng.

*

Chàng lại đi ngược từ Bắc vào Nam trên chuyến xe lửa ngày trước. Nửa đêm chàng lại phải thức dậy đi đái trong cái loa-lét đầy phân người nổi lềnh bềnh trên một cái hố tiêu bằng inox móp méo. Và chàng lại nghĩ đến cái cầu tiêu dát vàng của ông giảng viên trường tuyên huấn. Toa tàu lắc mạnh làm cho phân người bắn ra cả ngoài sàn tàu khiến chàng không dám đến gần cửa. Cuối cùng chàng đành phải đái cầu vồng ra ngoài toa xe, vung vãi như mưa rào xuống đường ray.

Chàng ngủ gà ngủ gật lơ mơ suốt đêm và đến chiều ngày thứ ba mới về tới nhà.

Chàng mang cái ba lô nhẹ tênh bước lên cầu thang. Cơ quan trống trơn. Mọi người đều về nhà hết. Hành lang tối vì không có ai bật đèn. Chàng bật công tắc và nhìn thấy căn phòng thân thuộc của mình, nhưng khi đến gần chàng thấy một mảnh giấy dán trên cánh cửa. Chàng chưa đọc vội. Chàng móc chìa khóa để mở cửa, lúc ấy chàng mới nhận ra đó là một cái ổ khóa xa lạ. Nó rất to và màu đen. Chàng không mở được cửa. Chàng tưởng mình lộn phòng. Nhưng sao có thể lộn được. Chàng đọc tờ giấy dán trên cánh cửa: “NIÊM PHONG” viết bằng chữ in hoa. Lý do: đây là cơ quan làm việc, không phải nhà ở vì thế cơ quan đã lấy lại căn phòng. “Mời đồng chí Mười Bù đến văn phòng Hội Văn Nghệ để được bố trí nơi ở khác.”

Máu bốc lên đầu. Chàng chạy như điên suốt dãy hành lang tìm một cái búa hay một cục đá. Cuối cùng chàng tìm thấy cái bình chữa lửa. Chàng đập cái ổ khóa bằng sức mạnh của cơn điên. Ổ khóa văng ra khỏi cánh cửa.

Chàng bước vào phòng. Nó không còn là căn phòng của chàng nữa. Tất cả đồ đạc của chàng đều biến mất, thay vào đó là những cái bàn làm việc, những tủ hồ sơ và ghế ngồi.

Chàng thấy mệt lả, ngồi bệt xuống đất, áp mặt lên chiếc ghế gỗ.

*

-Tại sao các người làm như vậy?

Câu hỏi lướt qua một dãy các mặt người lố nhố, lim dim và bất động. Những cái mặt trắng bệt, phẳng, lạnh tanh như vàng mã, như giấy bồi, như những con bù nhìn cắm rải rác trên bờ ruộng dưa.

Câu hỏi lướt qua các bia mộ ẩm mốc, rêu phủ, trong một nghĩa trang lạnh lẽo.

Bù Khú ném chiếc ba lô con cóc ra giữa cái nghĩa trang ấy.

-Tại sao? Tại sao các anh chiếm nhà tôi mà không thông báo cho tôi biết?

Những con bù nhìn vẫn lim dim ngủ.

-Các anh cử tôi đi học rồi ở nhà tự ý dọn hết đồ đạc của tôi. Các anh đã xâm nhập gia cư bất hợp pháp.

Những bia mộ vẫn câm lặng.

-Trả lời đi chứ! Đồ đạc của tôi các anh để đâu? Đạo tặc hả? Nhân lúc chủ nhà đi vắng các anh cạy cửa vô ăn trộm hả? Đồ đạc, quần áo, tiền bạc của tôi đâu rồi?

Một con bù nhìn nhúc nhích. Giống như nó bị gió lay động. Đó là tay Thủ Trưởng.

-Đồng chí đừng nóng. Khi đồng chí còn ở nhà tôi đã báo với đồng chí là nên dọn đi chỗ khác vì không thể ở trong cơ quan được. Đồng chí có nhớ không?

-Nhưng có ai cấp nhà cho tôi đâu? Vả lại tôi chưa kịp chuẩn bị thì các người cử tôi đi học. Ít ra cũng phải đợi tôi về đã chứ! Ít ra cũng phải gọi điện thông báo cho tôi chứ!

Một tấm bia mộ tự dời đi, lướt đi như con ma bay qua cửa sổ. Rồi một tấm khác. Rồi một tấm khác. Cuối cùng chỉ con lại Thủ Trưởng và tay trưởng phòng hành chánh.

Tay này nói:

-Tôi sẽ bố trí cho đồng chí một căn phòng ở chung cư Trần Hưng Đạo.

-Nhưng đồ đạc của tôi đâu?

Trưởng phòng nhìn thủ trưởng.

Thủ trưởng hỏi:

-Hôm trước ai dọn nhà?

-Bí thư chi đoàn.

-Nó đâu rồi?

-Nó đi dự Đại hội Đoàn ngoài Huế rồi.

Bù Khú sấn tới một bước, vung nắm đấm đập lên bàn của Thủ Trưởng.

-Muốn chơi trò gì đây? Muốn đuổi tôi ra đường hả?

Thủ Trưởng quát:

-Này Mười Bù, cậu biết đang nói chuyện với ai không?

-Với ai hả? Tao đang nói chuyện với cái dĩa mì xào. Mày quên cái dĩa mì xào nổi tiếng của mày hồi ở trong rừng rồi sao?

Và anh thộp cổ áo Thủ Trưởng. Tay trưởng phòng hành chánh liền nhào tới kéo Bù Khú ra. Ba bốn tay bảo vệ cũng tông cửa chạy vào. Cơ quan trở nên náo loạn. Nó không còn đìu hiu như cái nghĩa trang nữa. Nó là một đám chợ trời.

  1. PHÓ THƯỜNG DÂN

Sáng hôm sau Bù Khú nhận được tờ Quyết Định ghi một câu ngắn ngủi:

“Hội Văn Nghệ đang thừa biên chế. Đề nghị đồng chí đến làm việc với văn phòng thành ủy để nhận công tác mới.”

Người ta thảy Bù Khú vào một căn phòng ở lầu bảy một cao ốc cũ kỹ bỏ hoang từ lâu lắm.

Bù Khú ở đó được hai năm thì ngày kia có cán bộ Nhà Đất đến hỏi:

-Quyết định cấp nhà của đồng chí đâu?

-Không có.

-Giấy tờ tùy thân?

-Giấy gì?

-Thẻ căn cước của chế độ cũ cũng được.

Bù Khú tìm trong ba lô con cóc, thấy có tờ giấy vàng ố.

-Cái này được không?

Đó chỉ là một giấy chứng nhận Huân chương kháng chiến hạng hai.

Cán bộ nhà đất nói:

-Cái này không có ảnh.

-Ối giời. Sao mày đòi hỏi nhiều thứ quá vậy?

-Đồng chí không được gọi tôi bằng “mày” nhé.

-Lại còn bắt bẻ, nhóc ạ. Tao chỉ có bấy nhiêu đó. Không nhận thì cút!

Tay cán bộ trẻ một đi không trở lại. Cho nên năm năm sau Bù Khú vẫn ở căn phòng ấy mà không có miếng giấy lộn nào.

Thêm năm năm nữa. Cán bộ nhà đất lại đến.

-Đồng chí phải làm thủ tục thuê nhà.

-Tại sao?

-Vì nhà nước không bao cấp nữa.

-Nhưng tớ không có tiền. Ra đi hai bàn tay trắng, trở về cũng trên răng dưới dái. Lương thì không đủ ăn. Tiền đâu thuê nhà?

-Hồ sơ nhà của đồng chí chỉ có một cái bìa cứng. Quyết định cấp nhà của đồng chí đâu?

-Không có. Nhưng cái nhà này cũng sắp sập rồi. Cửa nẻo mục nát. Gạch bông lở lói, trần nhà dột tùm lum.

-Vậy đồng chí làm đơn xin cấp nhà khác đi. Phải có chứng từ gì chúng tôi mới làm việc được. Chứng minh nhân dân đâu?

-Làm gì có. Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói thứ giấy tờ ấy. Có phải đó là thẻ căn cước không?

-Phải. Người ta đi làm chứng minh nhân dân từ mấy năm trước rồi, sao đồng chí không làm?

-Có nghe ai nói gì đâu.

Anh cán bộ nhà đất thở hắt ra như sắp lìa đời.

-Thôi được, anh ta lấy một tờ giấy học trò, đồng chí khai đi. Tôi sẽ giúp.

Cuộc phỏng vấn kéo dài chừng mười lăm phút thì xong.

-Tôi sẽ làm giúp đồng chí một bộ hồ sơ nhà, đồng chí chỉ việc nhờ cơ quan chứng nhận là đã khai báo sự thật rồi đưa lại cho tôi.

Thế rồi anh ta đi. Mười năm không thấy quay lại. Trong mấy thập niên, Thủ Trưởng đã chuyển công tác và leo lên tới chức Giám đốc Sở, quyền lực bao trùm, còn Bù Khú thì ra bờ sông cất một cái am nhỏ, ở với một con chó.

*

Ngọc vỗ tay cười ngất.

-Hảo a! Hảo a! Nhưng vì đâu mà bỏ nhà nước ra làm phó thường dân?

-Khu chung cư của anh bị đập phá để xây khách sạn năm sao. Mọi người ai cũng được bồi thường hoặc đổi cho một căn hộ mới nhưng anh thì không có gì.

-Tại sao?

-Vì anh không có giấy tờ nhà, không có chứng minh nhân dân. Nói chung là anh ở lậu. Ở lậu tại khu chung cư ấy và ở lậu ngay trên đất nước Việt Nam. Không có gì chứng minh anh là một công dân, một người Việt Nam.

-Thế cái huân chương kháng chiến chống Mỹ của anh đâu?

-Chuột gặm. Mà nó cũng không có ảnh. Người ta có thể hiểu đó là tờ giấy anh lượm mót được ở đâu đó, ai đánh rơi.

-Thế còn Thủ Trưởng? Và các đồng chí cũ của anh đâu?

-Khó gặp họ lắm. Có lần anh đến nhà một thằng bạn làm chủ tịch quận. Vợ nó bảo anh chờ vì nó đang đi toa-lét. Anh ngồi chờ một tiếng đồng hồ không thấy nó ra. Chắc hôm đó nó bị táo bón. Từ đó anh không gặp ai nữa.

Ngọc đốt thuốc liên tục.

-Thế thì em hiểu rồi.

-Hiểu cái gì?

-Hiểu tại sao đàn bà nó bỏ anh.

-Ý em muốn nói vì anh đã nghèo lại gàn chứ gì? Không phải đâu. Mà vì anh bất lực sinh lý.

-Thôi đừng xạo. Cứ đem chuyện bất lực sinh lý ra khoe hoài. Thế 27 bà vợ để đâu?

-Nói dóc chơi thôi, làm gì có.

-Không có hả? Thế con bé Đào là gì? Nó yêu ông lúc ông đã năm mươi lăm tuổi, đã già chát. Chẳng lẽ thời trai trẻ không có ai yêu ông sao?

-Thì cũng có vài ba bà

  1. MƯA ĐÊM NHỚ VỀ PHƯƠNG BẮC

 

Một nhà sư trẻ, cao lớn, đầu cạo trọc lởm chởm, chạy xe từ ngoài cổng thẳng tới chỗ Bù Khú đang ngồi.

-Mẹ mất rồi.

Bù Khú chỉ kịp xỏ chân vô đôi xăng-đan rồi hai cha con chạy xe ra cổng.

Đó là một đám tang im lặng, không kèn không trống, không tụng kinh gõ mõ, chỉ lan tỏa một dòng nhạc êm dịu của dân ca Nga, giai điệu buồn, trầm ấm mà lúc sinh thời người chết rất ưa thích.

Ảnh trên bàn thờ chụp khi Bắc sinh con được 8 tháng, mặc đồng phục tiếp viên hàng không. Khi Bù Khú thắp nhang trước linh cữu, ông thấy đôi mắt Bắc ngước lên nhìn ông, mày rậm, mắt một mí.

Tòa cao ốc đứng sừng sững trong một khu đất khuất tịch, cảnh trí chung quanh như một tiểu thiên địa, có cây có đá, có dòng suối nhân tạo róc rách.

Một đám tang thanh bình, một khoảng sân rộng và mát. Không ai khóc.

Hôm cuối cùng, Bù Khú đến viếng Bắc ở bệnh viện Chợ Rẫy. Một cơn hấp hối kéo dài trong đau đớn, nhọc nhằn. Mê và tỉnh xen kẽ nhau. Cứ mỗi lần tỉnh lại, Bắc hỏi:

“Anh còn nhớ hôm đó trời mưa không?” Rồi không nói được nữa. Lại rơi vào mê sảng. Khi tỉnh dậy lại hỏi: “Anh còn nhớ hôm đó trời mưa không?”

*

Chỉ là một cơn mưa nhỏ, nhưng vì Bắc không mang áo mưa nên ướt tóc. Cô giấu cái túi xách trong áo gió.

-Em chạy thẳng từ phi trường về đây.

Bù Khú ngồi vào máy tính, cô nhân viên bán hàng nhận số mỹ phẩm Bắc đem về, bóc tờ hướng dẫn ra đưa cho Bù Khú. Anh dịch. Trời tối hẳn, mưa càng lúc càng dữ dội, từ trong cửa kính nhìn ra thấy mặt đường trắng xóa. Lá phượng rụng, trôi theo những dòng nước nhỏ.

Bù Khú hoàn tất công việc dịch thuật rất nhanh và Bắc cũng đã sấy khô tóc. Bù Khú nói:

-Mưa không trói buộc, nhưng cũng giữ được khách ở lại rồi.

Bắc hỏi:

-Hình như đó là ý của một câu thơ, đúng không?

-Đúng. Cổ thi hay nhắc đến mưa. Nổi tiếng nhất là bài “Dạ Vũ Ký Bắc” của Lý Thương Ẩn.

-Tên bài thơ đó có nghĩa là gì?

-Tạm dịch là: Mưa đêm nhớ đến cô Bắc.

Bắc cười khúc khích.

-Em và Lý Thương Ẩn sống cách nhau cả ngàn năm sao ông ta nhớ em được?

-Anh không biết. Có khi ổng yêu em từ kiếp trước thì sao? “Quân vấn quy kỳ, vị hữu kỳ. Ba Sơn dạ vũ trướng thu trì. Hà đương cộng tiễn tây song chúc. Bất thuyết Ba Sơn dạ vũ thì”.

-Anh dịch đi.

-Tạm dịch: Anh hỏi em, máy bay từ Paris về lúc nào? Em đáp chưa biết. Mưa đêm trên núi Ba Sơn đầy tràn mặt ao. Biết bao giờ chúng ta mới được cùng nhau ngồi chong đèn bên cửa sổ. Cùng trò chuyện về những đêm mưa?

Cô tiếp viên hàng không lại cười.

-Dịch xạo quá ông ơi. Nhưng đó là một bản dịch hay. Em sẽ nhớ cái tên Lý Thương Ẩn này. Ông ta là ai vậy?

-Một thi sĩ đời Đường, ông ta là người Hà Nội.

-Hà Nội? Anh lại lái sang em nữa rồi! Em là người Hà Nội nè.

-Ở bên Tàu cũng có “Hà Nội”, thuộc tỉnh Hà Nam.

-Sao anh quan tâm đến Lý Thương Ẩn quá vậy?

-Anh quan tâm đến những gì có liên quan tới Bắc.

–Tại sao?

-Trong bốn hướng Đông Tây Nam Bắc thì hướng Bắc là quan trọng nhất

-Gì nữa?

-Và kim la bàn lúc nào cũng chỉ hướng Bắc.

Đại khái đó là những câu mà Bù Khú dùng để tán tỉnh cô tiếp viên hàng không.

Một tháng sau ông chủ shop mỹ phẩm gọi Bù Khú đến:

-Tôi cho anh đi Pháp, anh đi không?

-Đi liền, nhưng để làm gì?

-Mua mỹ phẩm.

-Có biết đường sá đâu mà đi.

-Anh quên cô Bắc rồi sao?

-Nhưng cổ có rảnh đâu.

-Cổ có thể mua mỹ phẩm cho mình thì cũng có thể dẫn anh đi được.

Rồi ông đưa cho Bù Khú một danh sách toàn kem dưỡng da, kem tẩy trắng, trị nám, kem trẻ hóa da…Những sản phẩm ấy Bù Khú đã dịch hàng trăm lần, thuộc lòng.

Anh gọi điện cho Bắc. Bắc nói sẵn lòng giúp. Nhưng…

-Có vẻ như anh sẽ cạnh tranh với em.

-Đừng quan tâm. Lâu nay em chỉ mua giúp cho shop mấy hộp thôi mà, còn bây giờ anh mua nhiều.

Chuyến ấy cửa hàng giao cho Bù Khú mười lăm ngàn đô.

-Mua nhiều quá làm sao đem qua cửa khẩu?

-Chuyện đó để tiếp viên hàng không lo.

Thật chu đáo. Good! Anh bắt tay Bắc và hôn nhẹ lên má.

Đó là những ngày rất hạnh phúc ở Paris. Tuyết rơi đầy trời. Quảng trường Trocadéro, Champs Élysées, thánh đường Sacré-Coeur trắng xóa trên đồi, những khu rừng rụng hết lá và những vòi nước phun đông cứng ở điện Versailles, vòng xoay Périphérique ngập trong hơi nước và gió lạnh… Hai người ủ tay nhau nơi ghế đá khuôn viên nhà thờ Notre Dame, những con chim bồ câu bay lên như đám mây, chim sẻ đậu trên những ngón tay của Bắc đòi ăn…

Buổi chiều họ đem mỹ phẩm về một khách sạn bình dân gần phi trường Charles De Gaulle.

Tối đó lạnh quá, lò sưởi không đủ ấm. Bù Khú uống Cognac liên tục và ép Bắc uống rượu trong những chai échantillons lấy trên máy bay nhưng hai người vẫn lạnh run. Tuyết cứ rơi hững hờ, trôi dạt lấp lánh bên ngoài khung cửa trắng xóa, bất tận.

Bắc nói:

-Lý Thương Ẩn thường mơ ước được cùng người yêu chong đèn bên cửa sổ để nhắc lại kỷ niệm về những đêm mưa trên núi Ba Sơn. Còn ở Paris là mưa tuyết đầy trời chẳng lẽ Bù Khú Tiên Sinh không có hứng thú chong một ngọn đèn bên cửa sổ hay sao?

-Chong đèn thì được nhưng nhắc lại những kỷ niệm xưa thì không, vì lạnh quá, run lập cập, hai hàm răng va vào nhau, sao có thể tâm sự được.

Bù Khú xé những thùng mỹ phẩm thừa ném vô lò sưởi mà vẫn lạnh run. Chỉ còn cách ôm nhau. Ôm lỏng tay cũng lạnh. Phải ôm chặt, phải siết lại. Hai môi gắn chặt.

Và một mầm sống đã xuất hiện trong căn phòng lạnh lẽo đó.

Khi biết tin ấy, ba của Bắc nổi giận:

-Không chấp nhận. Nó là một thằng Việt cộng.

-Ảnh là một trí thức.

-Ba không cần biết. Ba không thích Việt cộng. Ngày trước chúng nó đấu tố ông nội con đến chết chỉ vì ông là địa chủ. Địa chủ cái nỗi gì! So với một thằng chủ tịch xã bây giờ tài sản đất đai của nó gấp trăm lần!

-Thưa ba, ảnh rất nghèo. Đi xe đạp, ở trong một chung cư tồi tàn.

-Con là tiếp viên hàng không trẻ đẹp như thế, sao phải lấy một thằng Việt cộng nghèo? Hãy bỏ cái thai ấy đi!

Nhưng hai người vẫn sống chung với nhau trong bảy năm, và cái thai đã trở thành một thằng bé lanh lợi, khỏe mạnh. Không ai biết sau này nó là nhà sư.

Hai người đã chia tay vì cái gì?  Vì nghèo khó hay vì tính cách ngông cuồng của Bù Khú?  Đứa con trai ở với mẹ một thời gian thì Bắc gởi nó lên chùa. Rồi đến lượt Bắc. Nghe nói đường tình duyên lại trắc trở nên cô xuất gia vào sống trong chùa với con.

Mấy năm sau có người bạn đến báo tin: Bắc đang nằm ở Chợ Rẫy. Bù Khú đến một mình. Phòng đông nghẹt bệnh nhân. Hai người phải gặp nhau ngoài hành lang. Hành lang cũng đông người. Bắc mặc đồng phục trắng của bệnh viên, xanh xao, hiu hắt. Bù Khú hỏi:

“Chồng em đâu?”

Bắc chỉ lắc đầu. Anh cầm bàn tay nhỏ nhắn của Bắc, áp mặt mình lên đó. Nước mắt rớt trong lòng bàn tay gầy yếu trắng xanh của cô gái Hà Nội.

“Em có còn nhớ bài Dạ Vũ Ký Bắc không?”

“Em chỉ nhớ bản dịch của anh. Anh hỏi em, máy bay từ Paris về lúc nào? Em đáp chưa biết. Mưa đêm trên núi Ba Sơn đầy tràn mặt ao. Biết bao giờ chúng ta mới được cùng nhau ngồi chong đèn bên cửa sổ. Cùng trò chuyện về những đêm mưa?

Bù Khú xoa đầu ngón tay lên vết đỏ có hình cánh bướm trên má của Bắc, hỏi:

“Bệnh lupus là bệnh gì vậy?”

“Bệnh đó không chữa được anh ạ. Người ta tính đưa em sang Mỹ để thử nghiệm một loại thuốc mới.”

Và cuộc thí nghiệm đó đã không thành công.

*

Hai cha con ngồi đối diện nhau.

Bù Khú hỏi:

-Ở trong chùa con có ổn định không?

-Con vẫn bình thường. Còn cha, cha có còn uống nhiều rượu không?

-Vẫn uống. Đời chẳng có gì vui con ạ. Hôm nay “bố dượng” có đến không?

-Ông ta đang ngồi ở ngay trước quan tài đó.

Bù Khú nhìn về hướng ấy, bắt gặp đôi mắt đỏ hoe cũng đang nhìn về phía mình. Rồi người đó đứng lên, đi lại phía hai cha con Bù Khú. Đứa con gái của ông cũng đến chào. Bù Khú hỏi:

-Con đã thắp hương cho mẹ chưa?

-Dạ.

Con bé cũng cận thị như ba nó. Việc chào hỏi xảy ra trong vài phút. Nhẹ nhàng và cũng không có gì khách sáo. Người đàn ông đó, cho đến giờ, Bù Khú cũng không biết tên là gì, làm nghề gì, mười mấy năm trước chỉ nghe một người bạn nói: tao gặp một thằng cha đeo kính cận chở con vợ mày đi chơi  ở vùng quê tận Nhà Bè. Tối đó Bù Khú hỏi: có đúng vậy không? Bắc đáp “có”. Và từ đó Tiên sinh không nói gì nữa. Ngôn ngữ bị loại bỏ khỏi căn phòng tồi tàn mà người ta đã cấp cho Bù Khú khi mới “giải phóng”. Một năm sau hai người ly hôn. Một năm sau nữa cậu con trai đi tu. Rồi đến lượt Bắc cũng vô chùa. Game over! Chấm dứt kết nối.

Nhưng Bù Khú không trách cứ, cũng không buồn. Vì đó là lỗi của ông. Ông đã tự thổi tắt ánh hào quang của mình: người trí thức đi kháng chiến, một chàng hiệp sĩ.

Tắt hào quang rồi ông trở thành một anh đồ gàn khó tính. Và thất nghiệp.

Nhiều năm sau, Bù Khú lên chùa thăm, Bắc nói:

“Phải chi Lý Thương Ẩn không có bài Dạ Vũ Ký Bắc. Phải chi chúng ta không đi Paris với nhau.”

Rồi bà lấy cây bút lông và một tờ giấy. Bà ngồi lại bàn, sửa thế ngồi cho ngay ngắn.

Bà nói:

“Em có học một ít chữ Hán. Hôm nay em sẽ chép tặng anh hai câu của Giả Đảo để làm kỷ niệm”.

Rồi Bắc cầm cây bút lông, nét chữ thảo rất khoáng hoạt.

Quái cầm đề khoáng dã
Lạc nhật khủng hành nhân
(Chim lạ kêu giữa đồng trống. Nắng tắt làm kinh sợ người đi )

Bà đưa hai câu thơ cho Bú Khú. Từ đó họ không gặp lại nhau nữa. Lúc ấy Bù Khú nghĩ: Chắc có lời nhắn nào trong hai câu cổ thi đó, nhưng bây giờ thì nó đã mất rồi, lời nhắn, dẫu có, cũng chỉ là mây khói.

  1. VĨNH BIỆT THUÝ

Người đàn bà thứ hai bước vào cuộc đời Bù Khú rất tình cờ.

Bù Khú vẫn còn sống trong cái ổ chuột trên tầng bảy của khu chung cư rách nát ấy, nhưng hắn đã xin được một chân cộng tác viên cho báo Phụ Nữ. Hắn giữ mục Hướng Dẫn Làm Đẹp. Ngày nọ hắn nhận được một thư độc giả hỏi về cách trị mụn. Hắn trả lời rất chi tiết về nguyên nhân mụn, cách chữa trị, cách ăn uống phù hợp và còn giới thiệu những mỹ phẩm hiệu quả.

Một tháng sau Bù Khú nhận được thư của cô độc giả nọ mời đi uống cà-phê. Hôm đó hắn gặp hai cô gái. Hai cô ở chung nhà, cô độc giả là thợ may tên Kim còn cô bạn tên Thúy, không rõ làm nghề gì.

Hắn đến nhà Kim chơi vài lần, có ý muốn gặp lại Thúy nhưng cứ vắng mặt hoài. Ngày nọ Kim mời hắn đến ăn trưa và hắn đã gặp Thúy.

Thúy nói:

-Chắc bữa đó em đi duỗi tóc nên anh không gặp. Hôm nào ba anh em mình đi bowling.

Nhưng tốc độ thân mật giữa Bù Khú và Thúy còn nhanh hơn trái banh bô-linh nhiều. Thức ăn đang nấu thì phát hiện còn thiếu vài món gia vị. Kim nói:

-Thúy ở nhà bắc dùm nồi nước, mình đi chợ.

Kim ra khỏi nhà chừng ba mươi giây thì Thúy đi tắm. Bù Khú ngồi trong bếp gọt dưa chuột. Tự nhiên nghe tiếng gọi:

-Kim ơi! Đưa giùm mình cái khăn tắm.

Bù Khú nói:

-Kim đi chợ rồi. Chỉ còn mình anh thôi.

-Vậy sao? Xin lỗi nha!

Nhưng Bù Khú đã đem khăn lại cửa phòng tắm.

-Em có nhờ anh đâu.

-Nhưng em đang cần khăn mà.

Bù Khú đẩy nhẹ cánh cửa. Nó không cài chốt bên trong. Hắn nhìn thấy một vầng hào quang sáng rực. Hắn bước vô. Thúy hỏi:

-Vô đây làm gì?

-Lau mình cho em.

Rồi hắn quỳ xuống, thấm nước giữa hai đùi của Thúy. Thúy cười khúc khích.

-Không được đâu. Anh ra đi. Kim nó về bây giờ.

-Chưa về đâu. Kim đi bộ ra chợ mà.

-Nhưng em không thích chụp giựt. Hẹn ngày mai ở một nơi khác. Hôm nay em chỉ muốn khoe với anh một chút thôi.

*

Vậy đó. Nhưng hắn yêu Thúy. Thúy ơi, dù em có làm gái điếm một ngàn năm anh vẫn tôn thờ em. Em luôn rực rỡ, và cao quý. Tại sao em lại không thể là một người phụ nữ cao quý trong cái xã hội lưu manh, trộm cướp và đàng điếm này?

Thúy làm việc ở vũ trường đến một hai giờ sáng, có đêm đi khách xong trở về mệt rã rời nhưng không dám ngủ. Cứ nằm lơ mơ một lúc thì trong đầu lại vang lên: Đi tắm! Phải dậy tắm rồi mới được ngủ! Và Thúy vùng dậy. Tắm xong, ngủ đắm đuối tới trưa hôm sau. Lúc đó Bú Khú đến và hai người đi ăn, xong vô khách sạn nằm với nhau đến chiều thì chở nhau ra phố.

Quán đông khách nhưng hai người vẫn tìm được chỗ trống. Đây là giờ tan sở. Những ông chồng tấp vào. Những gã áp phe tấp vào. Dân chơi tấp vào. Ăn tục nói phét, chửi thề, la hét. Chuông điện thoại di động. Tiếng nổ của bao ny-lông đựng khăn ướt. Một, hai, ba, dô! Thỉnh thoảng chúng dừng lại vài phút, chỉ còn một thứ giọng rầm rì tạp nham, rối rắm như tiếng ong, tiếng ruồi vo ve, như tiếng hỗn tạp của chợ búa.

-Đông quá, Thúy nói, em muốn đi chỗ khác.

Nhưng hai thằng đàn ông ở bàn kế bên đã bước tới, mỗi thằng cầm một ly bia. Một thằng nói:

-Chào em. Em có nhớ anh không?

-Xin lỗi, Thúy né người qua một bên, ông lầm người rồi.

-Sao lầm được hả, Thúy? Mới tối hôm qua đã quên sao?

Thúy kéo tay Bù Khú đứng dậy, tiến lại quầy tính tiền nhưng hai gã đàn ông cũng bước theo.

Bù Khú chụp tay lên vai gã.

-Mày là cái đồ rác rưởi!

Gã nọ quay lại, trừng mắt.

Bù Khú chụp lấy chai bia trên bàn xáng vô mặt gã. Gã ôm mặt. Máu rịn ra kẽ ngón tay. Lập tức tên thứ hai đấm đá túi bụi. Thêm hai tên nữa chạy đến. Bù Khú bị đè xẹp lép dưới nền gạch cho đến khi bảo vệ nhà hàng đến can thiệp, đưa Bù Khú đi bệnh viện.

*

-Đó là lỗi của anh. Bù Khú nói. Lẽ ra anh không nên đưa em vào chỗ đông người. Lẽ ra anh phải lường trước được tình huống đó.

Thúy khóc thút thít:

-Em không muốn đi làm nữa. Em thấy nhục nhã. Lúc đó em chỉ muốn chết.

-Hãy nằm xuống bên cạnh anh đi. Anh sẽ kể em nghe một câu chuyện.

Thúy nằm xuống, nghiêng người hôn lên những vết bầm trên mặt Bù Khú. Chảy nước mắt. Bù Khú nói:

-Em là người có Đạo. Em biết người đàn bà nào tên là Mađalêna không?

-Đó là người đàn bà ngoại tình bị công chúng ném đá.

-Đúng vậy. Đám người nọ nói với Giêsu: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao ?”

Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ : “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Đức Giê-su, và người phụ nữ thì đứng ở giữa. Người ngẩng lên và nói: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” Người đàn bà đáp: “Thưa ông, không có ai cả.” Đức Giê-su nói: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa.” Gioan (8,3-11)

Thúy nói:

-Câu chuyện này em đã từng nghe giảng ở nhà thờ.

-Nhưng anh lại muốn kể em nghe một câu chuyện khác về bà Mađalêna. Chuyện này không có trong Kinh Thánh, nó là câu chuyện do nhà văn Nikos Kazantzaki kể, và đạo diễn Martin Scorcese dựng thành phim năm 1988. Anh đã xem cuốn phim đó.

Phim mô tả Mađalêna là một cô gái điếm và Giêsu rất yêu cô. Ngày nọ, trước khi đi vào sa mạc để được mặc khải tin lành từ đức Chúa Cha, Giêsu đã đi tìm Mađalêna. Ngài đến khu nhà chứa nơi Mađalêna hành nghề. Đó là một căn phòng khá chật hẹp có kê mấy cái ghế dài và thấp. Năm sáu khách làng chơi đang ngồi chờ đến phiên mình. Bên trong là một cái giường có che tấm màn mỏng. Mađalêna đang “đi khách” với một gã người Ả Rập, những động tác hành lạc của hai người ẩn hiện sau tấm màn voan mỏng ấy. Chúa Giêsu kiên nhẫn ngồi chờ bên cạnh một gã da đen. Ngài trầm lặng, nhẫn nhục và thương cảm. Ngài ngồi im như một tượng đá. Rồi cuộc hành lạc cũng xong, một người khách khác lại đến, vén bức màn voan bước lên giường.

Đến lượt gã da đen ngồi cạnh Giêsu. Gã bước lên giường và làm tình một cách thô bạo. Da hắn đen như than, người mướt mồ hôi, hơi thở hổn hển. Giêsu ôm mặt, nhưng ngài không khóc.

Đến lượt Giêsu. Ngài cũng vén bức màn và ngồi xuống mép giường. Mađalêna kinh ngạc nhìn ngài. Bà hỏi: “Sao anh lại đến đây?” “Anh đến để từ biệt em,” “Anh sẽ đi đâu?” “Đức Chúa Cha đã gọi anh vào sa mạc.”

Thúy hỏi:

-Tại sao ông nhà văn ấy lại viết về Chúa Giêsu như vậy?

-Vì ông ta xem Chúa như một con người chứ không phải là một thần thánh. Đức Giêsu của Nikos Kazantzaki không phải là Đức Giêsu của người Kitô hữu. Đó là Giêsu của riêng nhà văn. Anh muốn kết hợp Kinh Thánh và Kazantzaki để nói với em rằng trên thế gian này cũng có những cô gái hành nghề như Mađalêna mà vẫn được tôn trọng, vẫn được Giáo Hội vinh danh hàng năm để nhắc nhở cho nhân loại rằng: đời con người được đánh giá bằng sự thành thật, được ghi dấu bằng tình yêu chung thủy.

Thúy lau nước mắt, nghiêng người ôm lấy Bù Khú. Cám ơn anh đã an ủi em. Nàng nhắm mắt lại, cảm thấy được nương tựa, được ân sủng. Hai người cứ nằm im như thế rất lâu.

Rồi một cô bé mười sáu tuổi hiện ra trong giấc chiêm bao. Một buổi sáng. Chiếc xe đạp xiêu vẹo chở một giỏ trái cây to. Mẹ cầm lái, cô bé đẩy xe. Tấm ny-lông trải trên nền đất. Chợ chồm hổm tràn ra đường. Xe đạp, chó, heo và những con bò đi lạc. Có những lúc cố bé mười sáu tuổi phải chở trái cây một mình. Chiếc giỏ cồng kềnh cột chặt sau yên xe, vành giỏ nghiến vào lưng. Cô bé đạp xe đến chợ, khi dỡ cái giỏ ra thì lưng rớm máu, tím bầm. Ngày này qua ngày khác, chỗ ấy thành một cái sẹo, tồn tại cho đến bây giờ.

Nước mắt vẫn chảy trong giấc chiêm bao chập chờn ấy. Bến phà Mỹ Thuận đông nghẹt người và xe. Tiếng động cuồn cuộn bất tận. Cô gái mười tuổi ốm yếu, đội cái nón cời, đi chân đất. Gió phần phật, chiếc nón cời bay vụt lên cao như cánh diều, lượn lờ trên khoảng trời nám khói rồi rơi xuống nước. Chiếc nón lá không có giá trị gì vậy mà đứng khóc. Có người đàn ông ăn mặc sang trọng đến, mua cho mười tấm vé số và nói: cháu xinh lắm, lớn lên cháu sẽ thành cô hoa hậu.

Nhưng cô bé đã không thành hoa hậu mà thành vũ nữ. Mười tám tuổi, có người giới thiệu vô làm bồi bàn một nhà hàng nổi ở bến Bạch Đằng. Đó là con đường dẫn tới vũ trường. Bây giờ thì đẹp đẽ, sang trọng như một người mẫu, nhưng vết sẹo trên lưng thì vẫn còn. Và vết thương trong tâm hồn càng ngày càng đau.

Thúy nói mê trong giấc ngủ. Bù Khú ôm lấy cô, vuốt mái tóc, vỗ về cô như đứa con khờ dại. “Anh yêu em. Anh yêu em mà! Đừng buồn nữa”. Thúy tỉnh lại. Mở mắt. Cô dụi mặt mình vào vồng ngực rướm máu của người đàn ông trung niên. Cô hỏi như một hơi thở: “Bù Khú ơi, anh có phải là Chúa Giêsu không?” “Nếu em muốn thì anh sẽ cố gắng làm Chúa Giêsu của em, chỉ của riêng em thôi. Cũng giống như Giêsu của Kazantzaki vậy”.

Thúy cười, liếm những vết thương trên ngực Bù Khú như con cho nhỏ.

*

Một tuần sau, những vết thương của Bù Khú đã lành, họ trở lại nhịp sống cũ. Buổi trưa trong khách sạn Bù Khú nằm ngắm Thúy. Anh nói:

-Thật giống như cái pháo bông.

-Cái gì giống?

Bù Khú xòe hai bàn tay ra, vẽ trong khoảng không giữa hai người:

-Từ phía dưới mọc lên thật rậm, rồi xòe ra hai bên, ép sát vào da thịt, tỏa ra nhiều nhánh đen nháy như huyền ngọc, lấp lánh. Giống hệt cái pháo bông em ạ. Anh chưa từng thấy có người đàn bà nào lại tỏa ra như pháo bông vậy. Chùm pháo bông ấy là một kỳ quan của nhân loại.

Thúy cười ngặt nghẽo.

-Khùng quá ông ơi!

-Không khùng đâu. Phải là một thiên tài mới nhìn thấy cái pháo bông của em.

Thúy hôn để cám ơn “thiên tài” của mình. Khi mọi thứ đã lắng xuống, Bù Khú cứ cầm bàn tay của Thúy mà hôn hoài. Anh nói:

-Có lẽ em phải bỏ nghề này thôi Thúy ạ. Anh không coi thường nó nhưng nó làm em mất sức. Em sẽ ngã bệnh.

Nhưng Thúy không thể bỏ nghề. Vì cô đã quyết tâm đưa gia đình ra khỏi kiếp lầm than. Bù Khú cũng quyết tâm làm một cái gì đó cho Thúy. Ngày Tết anh đưa Thúy về Hậu Giang. Thúy nói:

-Nhà nghèo lắm. Anh không thể tưởng tượng được đâu. Thân lắm em mới đưa anh về, không thì mắc cỡ chết được.

Về làng. Không phải làng mà là một cái xó. Và ở miền Tây có hàng ngàn cái xó như vậy. Chúng nằm trong kẹt của đất nước. Chỉ là thứ bãi bồi, những rẻo đất bùn lầy, lởm chởm, hầm hố… rải rác giữa vùng sông rạch chằng chịt. Những mái lá thấp bé lẩn khuất trong cây lá trong ruộng đồng, trong cỏ lát. Những con người sạm đen tối ngày ngây ngất trong men rượu gạo đục ngầu.

Không gian lạch bạch tiếng ghe máy, tiếng vịt kêu. Mái lá trống, rách nát. Nền đất đen, mấp mô, bếp lửa nám khói và bồ hóng. Những chiếc võng rách vá víu, những chiếc giường tre và manh chiếu cũ mòn.

Thúy hỏi:

-Thấy nhà đẹp không?

Bù Khú ngậm ngùi, ông chỉ nói:

-Anh thương em lắm.

Có chiếc ghe máy đậu lại bến sông. Ba người đàn ông dìu nhau lên bờ. Hình như họ đang nhậu dở dang ở đâu đó. Ông già của Thúy vỗ vai Bù Khú:

-Này chú em. Vô đây.

Các thứ được bày ra trên bộ ván. Cuộc sống đơn giản hóa, thành một tập tính của động vật. Mỗi ngày họ tìm đến nhau, ngồi trên bộ ván, mấy con khô, một dĩa xoài, bình rượu. Không quan tâm đến quần áo, giày dép. Họ đi chân đất, ở trần. Họ nói những câu chuyện giống nhau, họ lập lại những điều đã nói, họ la hét, cười khóc và hỉ mũi. Họ không biết gì đến những cuộc sống khác, những thế giới khác, những loài người khác. Họ không quan tâm đến nhà cửa, những tiện nghi vật chất.

Những mái lá cứ xơ xác, xiêu đổ. Gió xô sập rồi lại mọc lên, đơn giản như cái ổ gà.

Sáng sớm Thúy thức dậy trên chiếc giường tre ọp ẹp, mùng màn treo toòng teng, quần jeans, áo sơ-mi mắc lộn xộn. Bù Khú biết cô đã thức dậy nhưng còn đang nằm trong cái đống bùi nhùi đó. Anh lòn qua mấy cái quần, vén mùng lên. Thúy uốn mình như con báo cái uyển chuyển. Thúy vẫn đẹp rực rỡ trong đống giẻ rách ấy nhưng anh không dám ôm hôn. Và Thúy cũng không vít đầu anh xuống như những lần ở khách sạn.

Bù Khú chần chừ, ngại ngùng. Thúy hỏi:

-Có gì vậy?

-Toa-lét đâu?

Thúy cười khúc khích. Gọi:

-Út ơi! Út! Dẫn anh Hai mày đi ra thăm mấy con cá tra kìa!

Bú Khú giật mình. Đó là lần đầu tiên anh tiếp xúc với “nền văn minh cá tra”, một thứ chu kỳ sinh học khép kín đơn giản, hiệu quả và vệ sinh nhất.

Khi anh trở vào, Thúy hỏi:

-Sao? Chúng nó có lịch sự không?

-Hơi mất trật tự. Nếu như ở thành phố thì chúng nó phải xếp hàng.

Thúy cầm cái bàn chải răng, mở nắp lu nước. Một con rít to bằng ngón tay bò lên miệng, cô dùng cán bàn chải đè đầu nó, nó rớt xuống đất, giãy giụa. Thúy vít nó cho lũ gà đứng bên cạnh.

-Rít ở đâu mà to thế?

-Nhiều lắm. Nó ở trên mái nhà. Nó theo nước mưa xuống nằm trong lu.

Cô máng khăn mặt lên nhánh cây chùm ruột. Bọt kem đánh răng dính quanh miệng. Bù Khú nói:

-Đánh răng kỹ quá, mòn hết. Bắt đền!

Thúy xua tay đuổi Bù Khú đi. Cậu em trai của Thúy bưng cai rổ đi ra bờ sông, Bù Khú ngoắc lại:

-Sơn ơi! Đi mua cho ba thùng bia.

-Ba không uống bia. Ở đây không ai uống bia đâu anh ơi.

-Thôi, mua con vịt quay.

Sơn nhận tiền, bỏ đi.

Nhưng tối đó không có cuộc nhậu. Ba của Thúy lên cơn đau bụng. Ông cong người, rên rỉ, rồi ói ra máu. Cả nhà thức dậy. Bù Khú xuống võng. Anh bảo Thúy:

-Xuất huyết bao tử. Phải đem bệnh viện gấp.

Chiếc ghe máy chạy giữa đêm. Ra tới huyện Vị Thanh. Xa mút chỉ. Cũng may còn giường trống. Chuyền nước biển. Bù Khú và Thúy ngồi hai đầu giường, bé Sơn ra hành lang ngủ. Đêm đó hai người không nói chuyện gì. Thúy chỉ khóc còn Bù Khú thì chỉ nói đi nói lại một câu: Anh thương em. Anh thương em. Nói lai rai cho tới sáng. Nói mỏi miệng rồi thiếp đi.

*

Trở lại Sài Gòn, Thúy trở về với thế giới của đêm. Với cõi âm. Trở về với địa ngục sang trọng, hào nhoáng, rực rỡ.

Còn với Bù Khú, nó là những đêm trắng. Hắn nhận làm thêm nhiều tờ báo khác. Báo của quận cũng làm, của phường cũng không từ chối. Hắn thiết kế đủ loại mẫu mã, giải đáp làm đẹp. Và… làm thơ. Thơ kiểu gì hắn cũng làm được: thơ Đường, thơ Mới, thơ Tự do, thơ Ấn tượng… hắn sản xuất hàng loạt. Lúc rảnh rỗi hắn chạy xe ôm nữa.

Nhiều buổi trưa gặp Thúy ở khách sạn hắn ngủ đắm đuối. Thúy cũng ngủ. Thức dậy phờ phạc. Hai người đều quên làm tình. Thực ra, cả hai cùng mệt lả. Bù Khú đề nghị:

-Ngày mai em dọn về ở với anh. Đỡ bớt chi phí.

*

Nhưng khuya đó Thúy không về. Cúp máy. Mấy ngày sau, có lần Bù Khú nghe chuông reo nhưng không ai bắt máy, gởi tin nhắn cũng không trả lời.

Bóng tối và sự hoảng loạn trùm xuống. Như một cơn địa chấn. Bỗng nhiên thấy trái núi trước mặt biến mất, dòng sông cũng cạn khô, thấy mình đứng giữa ngổn ngang gò đống. Con chim lạ kêu giữa đồng trống. Nắng tắt làm kinh sợ người ở lại. Thúy biệt mù, không tăm tích. Như con thuyền thất lạc trong cơn bão, không về bến. Hắn đứng ngóng trên biển. Chân trời thẳng tắp, không một bóng dáng, không một cánh chim, chỉ có sương khói và tiếng sóng.

Chiếc điện thoại di động đã chết, lạnh ngắt như một tử thi. Con thuyền không về. Mất liên lạc. Mất tích. Không rõ nguyên cớ. Hắn kêu gào trong căn phòng đóng kín. Hắn đi suốt đêm quanh căn phòng trọ của Thúy. Hắn ngồi rình trong bóng tối của con hẻm chật hẹp. Cửa đóng, khóa bên ngoài. Những người hàng xóm nói: cả tuần nay không thấy cổ về. Không có bờ biển nào để mà ra ngồi ngóng. Không có con thuyền, chỉ có tiếng xe máy, rất nhiều xe máy đi qua con hẻm đó. Hắn đói khát, tàn tạ, gầy đét như con cá khô bị bỏ quên trên hè phố.

Ngày thứ mười hắn leo lên một chiếc xe khách về Cần Thơ. Người cha nói:

-Không thấy nó liên lạc. Ở nhà gọi điện thoại cũng không được.

Chỗ bám cuối cùng cũng sụp đổ. Bù Khú nằm khóc trên chiếc giường tre của Thúy. Và không dậy nữa. Ngày thứ ba lúc nửa đêm, điện thoại reo. Một số điện thoại lạ hiện lên màn hình.

-Cho tôi gặp anh Mười Bù.

-Mười Bù đây.

-Thúy nhờ tôi nhắn với anh là cô ấy bị bắt cóc hiện bị giam trong một căn phòng ở Chợ Lớn. Điện thoại bị lấy mất rồi.

-A lô! A lô! Tôi gặp chị ở đâu?

*

Một quán cà phê tồi tàn. Một người đàn bà tàn héo như món trang sức đã rỉ sét.

-Thúy đâu?

Người đàn bà chỉ lên cái gác gỗ phía bên kia con hẻm. Bù Khú hỏi:

-Làm sao lên đó?

-Không lên được đâu. Phải bước qua xác của thằng ghiền đó. Nó cầm con dao phay, chờ ở cầu thang. Nó chờ cậu đấy.

-Nhưng nó có quan hệ gì với Thúy?

-Nó là chồng của cổ. Trước nay cổ đi làm về đưa tiền cho nó xài. Đưa không đủ, nó đánh, chửi. Cổ phải trốn đi cả năm nay. Nó không có tiền xài phải đi ăn cướp, bị bắt đưa đi cải tạo. Nay nó trốn về, đến vũ trường tìm con nhỏ.

-Nhưng hai người có cưới nhau không?

-Cưới gì. Nó chỉ là một thằng bảo kê.

-Thế thì nó chẳng có quyền gì cả. Tôi sẽ giành lại. Bây giờ tôi đi báo công an.

-Công an cũng không dám đụng đến nó đâu. Nó có nguyên một băng.

-Thế chị không sợ tụi nó sao?

-Tụi nó là hàng xóm của tui. Hôm qua tui tình cờ đi ngang dưới cửa sổ. Thúy thả cho tui mảnh giấy, có ghi số điện thoại của cậu.

Bù Khú nói cảm ơn rồi bước ra khỏi quán. Anh băng qua bên kia hẻm, đến sát dưới cửa sổ phòng giam của Thúy. Anh gọi:

-Thúy ơi! Thúy!

Không ai trả lời. Lại gọi:

-Thúy ơi!

Liền có một mặt người hiện ra, nhợt nhạt, tóc sổ tung. Thúy đưa tay vẫy. Nhưng gã đàn ông đã xuất hiện, hét lên:

-Đ.m. Đứng im đó đi. Tao sẽ xuống giết mày!

Tình huống ấy không bất ngờ với Bù Khú. Anh có một khẩu K59 đem từ trên rừng về. Anh quyết định xông vào nhà, leo lên gác. Hai người gặp nhau ở cầu thang.

-Mày muốn gì?

-Muốn đưa Thúy đi. Tao sẽ đóng tiền chuộc cho mày.

-Không được. Thúy là vợ tao.

-Mày nói láo! Thúy chưa có chồng.

-Được rồi. Mày có bao nhiêu?

-Năm chục triệu.

Gã xì ke cười hô hố.

-Một hoa hậu mà rẻ như vậy sao? Một trăm triệu!

-Tao là công chức nghèo. Tao không có tiền.

-Vậy thì cút!

Hắn đạp vô bụng Bù Khú khiến anh lộn mấy vòng xuống thang gác, trán đập xuống nền nhà tóe máu. Thúy nghe động, chạy ra đầu cầu thang.

-Đừng đánh!

Nhưng gã ghiền đã cầm con dao phay, hùng hổ chạy xuống cầu thang. Hắn không biết đối phương có súng nên khi nghe thấy tiếng nổ thì đã quá muộn. Hắn trượt chân, đà chạy làm hắn ngã chúi, đập mặt vào những bậc cấp nham nhở.

Bù Khú cất khẩu súng vô túi, ôm Thúy vào lòng. Anh nói:

-Chúng ta không thể cất được nhà cho ba rồi em ơi!

Thúy bật khóc.

*

Nhưng khi nghe kể đến đó Ngọc lại cười. Bù Khú ném mẩu thuốc lá xuống đất.

-Em thật tàn nhẫn. Tại sao em lại có thể cười được. Em có biết rằng anh đã phải ngồi tù suốt năm năm trời không? Và tụi anh đã không bao giờ lấy nhau được.

-Tại sao?

-Thúy đã nuôi anh suốt năm năm đó. Tiền hết, nhà không cất được. Nhưng đau đớn nhất là khi anh ra tù thì Thúy lâm bệnh. Đó là một thứ bệnh không chữa được. Thúy sụp đổ. Tan nát. Anh nói: chúng ta sẽ cưới nhau, bất chấp căn bệnh khốn kiếp ấy. Nhưng Thúy đã bỏ đi.

*

Bù Khú tìm Thúy khắp nơi. ông về Vị Thủy, ông đến những Trung Tâm chữa trị người nhiễm HIV, ông tìm gặp bạn bè cô ấy. Không ai biết Thúy đi đâu cả.

Một năm sau, ngày nọ, ông thức giấc lúc ba giờ sáng sau một giấc mơ dài. Ông gặp Thúy trong một công viên đầy lửa. Lửa đẹp như những luống hoa, bừng sáng khắp nơi. Thúy đi xuyên qua những luống hoa ấy, mặc áo lụa trắng, khăn voan màu khói, tóc đen mượt, bay như chim trong một nền trời hoàng hôn tím nhạt.

Ông chạy đuổi theo Thúy, bước trên những khóm lửa lạnh giá. Thúy đưa cánh tay cho ông nắm, bàn tay trắng xanh, mảnh khảnh như một cành lau nhỏ. Thúy tràn ngập cả buổi sáng, cô đã hiện ra và làm băng giá những ngọn lửa, làm rực sáng cả một vùng sương sớm đang la đà trên mặt cỏ ướt. Thúy bước chậm, nhẹ nhàng như một chiếc lá mỏng, nhạt nhòa trong hoa cỏ, thấm đẫm vào trong những ngọn gió se thắt. Bù Khú cảm nhận được sự mong manh thảng thốt trong vẻ đẹp ấy, nó như đang ở trong ranh giới của sự hòa nhập vào cây cỏ, vào mây núi, vào tĩnh mịch.

Cuối cùng ông lên tiếng:

-Em theo anh được không?

-Được. Anh cõng em đi.

Bù Khú ngồi xuống và ra hiệu cho Thúy ôm cổ. Ông cõng Thúy, bước từng bước lên những đám lửa nhỏ, đến một cánh đồng đầy tuyết trắng xóa. Ông đặt Thúy xuống giữa cái màu trắng mênh mông ấy và một cơn gió chợt đến thổi người con gái ấy bay đi xa dần, xa dần… rồi mất hút trong cái màu trắng vô vọng của tuyết.

Bù Khú thức dậy bàng hoàng vì giấc mơ kỳ lạ. Rồi ông khoác áo ra đi. Đó là lúc ba giờ rưỡi sáng. Một người một xe, phóng như bay giữa bóng tối của phố xá, giữa xa lộ vắng tanh, giữa cơn mưa phùn lất phất. Như một kỵ sĩ đơn độc giật mình khi biết rằng người tình đã bị bỏ rơi lại đàng sau chiến địa và đã mất tăm giữa trùng trùng binh giáp, xe pháo, vó ngựa và khói súng.

Ông chạy nhanh như thể chính mình đã biết đích xác vị trí mà người yêu đang nằm ôm vết thương đẫm máu. Ông nghe cả tiếng rên rỉ và những giọt máu nhểu xuống sa mạc lạnh tanh tối tăm đàng trước. Ông cúi người xuống tránh cơn gió thổi tạt vào ngực. Và chạy. Ông đã trễ. Quá trễ. Đã trễ suốt bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, đã để Thúy nằm nơi trận địa suốt những mùa mưa nắng, bão cát và gió chướng. Ông tưởng như sẽ đến tức khắc. Sẽ bay xuống xe. Sẽ ôm lấy Thúy. Và sẽ trùng phùng.

Rồi ông đến căn nhà cũ. Vẫn là nhà tranh vách lá, nền đất đen, vẫn bộ ván đặt kế bàn thờ, vẫn bụi mía sau nhà cạnh lu nước.

Nhưng căn nhà chỉ còn một cái xác, ốm yếu, tàn tạ. Căn nhà nín thinh. Con chó nhỏ cũng nín thinh, lủi thủi đi. Bù Khú bước vô cửa. Người đàn bà ngồi im trên chiếc ghế nhựa xù xì. Ông chào. Không chào lại. Ông hỏi. Không trả lời. Đó không còn là mẹ của Thúy. Đó là một con cá khô hong trên gác bếp.

Bù Khú ra phía sau nhà. Con chó đi theo, ngửi ngửi ống quần. Bù Khú ngồi xuống vuốt ve nó nhưng nó bỏ chạy. Ngoài bếp, ông thấy thằng Sơn đang ngồi nướng một con rắn mối.

-Em có nhớ anh không?

-Dạ.

-Nhà có chuyện gì vậy?

Im lặng.

-Chị Thúy đâu?

Im lặng.

-Sao mày không nói? Dẫn anh đi gặp chị Thúy đi.

-Ở nhà không còn một hột gạo.

Bù Khú kéo thằng Sơn dậy. Nó nắm chắc con rắn mối trong tay. Bù Khú đến trước mặt người đàn bà, đưa cho bà một xấp bạc. Rồi hỏi:

-Thúy đâu? Tôi muốn gặp cô ấy.

-Nó sắp chết rồi.

Người đàn bà đưa mắt nhìn thằng nhỏ. Nó nắm tay Bù Khú dẫn ra trước nhà. Bù Khú theo nó, băng qua hàng cây tràm ven sông. Đi hoài không thấy dừng lại.

-Xa lắm sao?

-Dạ.

Nó leo xuống mé nước. Chiếc ghe đậu trong lùm tre. Thằng nhỏ chèo ra tới cửa sông. Tách biệt khỏi làng xóm.

Nó chèo chừng mười lăm phút nữa thì tới một cái bè cá neo đậu trên một khúc sông vắng vẻ mênh mông nước và cỏ lát. Cò trắng đậu rải rác trên những cây đước thấp nhưng đàn quạ thì quần đảo trên không như một đám mây nhỏ.

Xuồng tấp vô chiếc bè cá. Bù Khú níu sợi dây thừng nhảy lên bè. Nó trống trơn và đầy gió. Ông đi bước nhẹ. Ông nín thở.

-Thúy ơi! Thúy!

Chỉ nghe tiếng sóng vỗ ì oạp vào cái bè gỗ.

-Thúy ơi! Anh Mười Bù đến thăm em nè.

Có tiếng bước chân. Một ông già đen đủi, ốm nhom hiện ra. Đó là ba của Thúy.

-Bác nhớ cháu không?

-Mười Bù.

-Phải. Mười Bù đây. Thúy đâu rồi bác?

-Nó nằm phía sau.

-Sao phải đưa cổ ra tận đây?

-Vì hàng xóm người ta sợ.

-Sợ gì chứ? Bệnh này có lây qua tiếp xúc thông thường đâu.

-Nhưng người ta sợ.

Rồi ông quay đi. Bù Khú theo sát ông ra phía sau. Đó không phải căn nhà. Cũng không phải căn phòng. Đó là một cái chuồng mỗi bề chừng ba mét làm bằng cây cừ tràm, ở giữa có một cái giường tre nhỏ trải chiếu, một cái gối và một cái mền len của bộ đội đã cũ kỹ, đã sờn rách.

-Thúy đâu?

Ông già im lặng, nhìn xuống những con cá đang quẫy nước dưới hai bàn chân chai bè của ông.

-Thúy đâu, hả bác?

Ông già chưa kịp trả lời thì phía sau cái vách ngăn bằng phên tre có tiếng nói:

-Đừng vô. Em lạy anh. Anh Mười ơi! Anh về đi. Em không gặp anh đâu.

-Tại sao? Anh đã vượt qua hai trăm cây số để đến đây thăm em. Sao em đuổi anh?

Thúy khóc.

-Em lạy anh. Nếu thương em thì hãy về đi.

-Anh không về. Dù em có tàn tạ như thế nào anh cũng phải gặp em. Tại sao em trốn anh mấy năm nay?

-Đi đi! Đi đi mà!

Bù Khú xông đại vô. Thúy giữ chặt cánh cửa phên tre. Ông già chạy đến kéo tay Bù Khú.

-Cậu ra đi. Nó biết cậu đến nên nó trốn.

-Vậy chẳng lẽ không gặp mặt sao?

Ông già đi lấy một tấm màn cũ, bảo thằng Sơn phụ ông treo lên, che trước cái giường.

-Bây giờ cậu có thể vô được rồi.

Thúy nói:

-Nhưng không được vén màn lên.

-Anh hiểu.

Bù Khú ngồi xuống cái ghế gỗ, sát bên tấm màn. Ông hỏi:

-Thời gian qua em đã sống như thế nào?

-Em đã nằm sáu tháng ở Trung Tâm nhưng sau đó ba em đưa về nhà. Em nằm nhà được ba tháng thì ra đây vì không chịu được thái độ của hàng xóm.

-Nhưng sao lại phải ở trong cái lồng?

-Ba sợ em té. Đã có lần em rớt xuống nước.

-Bây giờ em thấy trong người thế nào?

-Em rất đau đớn. Chỉ muốn chết.

-Anh vô được không?

-Không được. Anh mà vén màn lên thì em sẽ đâm cổ tự vận liền.

Rồi cô thò cánh tay ra. Có cầm con dao.

Bù Khú gỡ con dao ra khỏi những ngón tay Thúy. Ông giữ chặt lấy bàn tay cô.

Thúy hỏi:

-Bây giờ anh làm gì?

-Anh không muốn làm gì cả. Anh sẽ ở đây với em.

-Không được đâu. Bệnh em đã nặng lắm rồi. Mọi người đều sợ em.

-Anh không sợ.

Thúy ho khúc khắc. Sau đó là những tiếng thở hổn hển. Cô rụt cánh tay vô. Rồi lại ho. Dứt cơn ho, cánh tay ấy rớt xuống chiếu, buông thõng xuống sàn ván. Bù Khú nhìn thấy những giọt máu nhểu xuống theo kẽ tay.

Tiếng của Thúy nhẹ như một làn gió đến từ cõi xa lạ:

-Em sẽ lây bệnh cho anh.

-Anh không sợ.

Ông cầm lấy bàn tay cô. Những ngón tay còn rất đẹp, lòng bàn tay vẫn mềm mại. Đó là bộ phận duy nhất mà Thúy còn đủ can đảm đưa ra. Ông van xin:

-Thúy ơi, anh không ngại thấy em xấu xí đâu. Anh muốn ôm em.

-Vậy thì anh giúp em điều này, có được không?

-Em nói đi. Điều gì anh cũng làm được.

-Anh hãy bịt mắt lại đi, rồi vô đây ôm em.

Bù Khú lấy khăn tay bịt mắt. Ông ghé sát mặt vô bức màn, Thúy sờ lên mặt ông.

Bù Khú bước vô. Thúy kéo ông ngồi xuống giường và ôm lấy ông. Ông giữ chặt tấm thân mảnh dẻ quen thuộc ấy và ngạc nhiên thấy nó vẫn còn hơi ấm của ngày xưa.

Thúy nói:

-Đừng hôn miệng em.

Bù Khú hôn lên cổ. Thúy cảm thấy giọt nước mắt nóng hổi. Cô nói:

-Sao khóc nhè vậy? Hôm nay em vui lắm. Hãy cười với em một chút đi! Anh không nhớ cái “pháo bông” của em sao? Có lẽ đó là bộ phận duy nhất trong cơ thể em vẫn còn nguyên vẹn. Và khi em chết đi rồi, ở dưới đất sâu tối tăm kia thì nó vẫn nguyên vẹn.

Câu nói ấy làm ông òa khóc. Không kìm chế được. Và cũng không cần kìm chế. Như một cơn lũ tràn đến, nức nở, mênh mông, vỡ bờ.

Đêm hôm đó Thúy qua đời. Hình như là lúc gần sáng. Cả Bù Khú lẫn người cha đều không ai hay biết. Họ đã thức rất khuya và ngủ thiếp đi trong cơn gió sông lạnh buốt. Họ ngủ co quắp như hai kẻ ngư phủ già uống say quên đời.

*

Lễ hỏa táng không có nhiều người. Chỉ trong gia đình và vài người hàng xóm. Thúy được đặt trên một cái bè nhỏ chất đầy củi khô và một ít hoa Bù Khú gom được trong cánh đồng. Mọi người ngồi trên sàn nhà, nhìn xuống chiếc bè. Bù Khú đưa cho người cha một bó đuốc rồi hai người châm lửa hai đầu.

Người ta cắt sợi dây neo và chiếc bè trôi đi. Thật chậm. Mọi người đều khóc. Bù Khú không khóc. Ông lặng lẽ tách ra khỏi họ, đi về phía bờ cỏ, chỗ có những gốc tràm đâm rễ tua tủa ra tận mé nước.

Ông lội xuống, đón đầu chiếc bè và thả mình trôi theo dòng chảy của khúc sông đang rực lên vì ngọn lửa huy hoàng bốc cao khỏi những ngọn cây. Lửa làm ông thấy ấm áp giữa dòng sông đầy gió. Thúy đang hóa thân thành ánh sáng. Thúy đang nhìn người tình của mình  tiễn đưa cô trong cuộc chia tay không bao giờ trở lại.

 

  1. HÔN LỄ

MAN RỢ

Anh chàng Việt kiều Mỹ trở về. Ngọc hỏi:

-Về làm gì?

-Làm đám cưới.

-Bộ bên Mỹ không có đàn bà sao?

-Có, nhưng rất hiếm.

-Ở Việt Nam thì đầy dẫy, việc gì phải vô trong xó kẹt này mà tìm vợ?

-Vì anh thích em. Có cá tính mạnh và thông minh.

-Em mà thông minh á? Chẳng phải bị đàn ông nó lừa hoài sao?

-Ai lừa được em?

-Bộ anh quên cái chàng sinh viên tên Toàn sao? Em bỏ tiền ra nuôi anh ta ăn học mấy năm trời. Đến khi tốt nghiệp thì quất ngựa truy phong. Có nhớ không?

-Nhớ. Nhưng liên quan gì tới anh?

-Một người chịu ơn mình, một người mà mình đã cưu mang trong nhiều năm vậy mà khi thành tài họ còn bỏ mình, huống chi anh với em chỉ mới quen biết một thời gian. Sao có thể bền vững được?

-Nhưng anh với em ở cách xa nhau nửa vòng trái đất, và chúng ta đều đã ngoài ba mươi.

-Vậy thì cưới đi, Ngọc vừa nói vừa cười. Ở Việt Nam anh còn một người cha phải không?

-Phải. Nhưng anh rất ghét. Lúc mới ở trên rừng về, gặp ngay một cô ca sĩ, ổng trở mặt bỏ vợ con liền. Cho nên anh sẽ không mời ông ta đâu.

-Nhưng hãy cho em một chút thể diện. Thây kệ, cứ mời ổng đi anh à. Đám cưới của em không thể không có ba anh được.

Bảo im lặng. Rồi hỏi:

-Còn phía em thì sao?

-Em có Bù Khú Tiên Sinh.

-Đó là tay nào vậy?

-Một ông già sáu mươi tuổi, rất chịu chơi. Hiện ổng đang nuôi bé Nhung.

-Quan hệ giữa ông ta và em như thế nào?

-Bạn bè. Cả hai người đều là dân homeless. Đã có lúc em muốn lấy ổng.

-Sao không lấy?

-Ổng vợ tùm lum. Sao lấy được.

-Tay đó thật đáng ngờ.

-Nhưng trước sau gì anh cũng phải gặp.

*

Ngôi biệt thự cũ được sơn lại màu trắng, trang hoàng đơn giản. Dàn nhạc chỉ có một cây piano và một vĩ cầm. Tiếng nhạc cất lên lúc mười giờ sáng.

Chủ hôn là Giám Đốc Sở và Bù Khú Tiên Sinh, không có phù dâu và phù rể, chỉ có đám con nít gồm hai đứa con của Ngọc, Nhung và bé Đào cùng mấy đứa bạn của chúng nó đi lại tung tăng, đùa giỡn. Nhạc cũng tùy hứng: nhạc Xuân, nhạc  Giáng sinh, Mozart hoặc nhạc Country.

Có vài người khách mời là quan chức trên ủy ban quận, công an, tổ dân phố.

Giám Đốc Sở không muốn giới thiệu mình, nhưng nhìn cái cách cung kính của đám hầu cận ai cũng biết ông là người có địa vị cao. Ông ngồi cùng bàn với Bù Khú Tiên Sinh và mấy quan chức trên thành ủy mới đến.

Bỗng nhiên nhạc nổi lên tưng bừng, một điệu rock vui nhộn, hình thành giữa sân một đám nhảy náo nhiệt.

Cô dâu chú rể còn mai phục trong buồng kín để nghe kịch bản và dợt lại vài nghi thức.

Ngọc đẹp. Bảo cũng đẹp.

Tối qua Bù Khú dặn Đào:

“Con cũng phải diện thật đẹp. Chú không muốn con thua sút cô dâu.”

“Nhưng để làm gì?”

“Để tặng vẻ đẹp ấy cho bạn trai của con.”

“Con không có bạn trai.”

“Vậy hãy tặng cho con gái của con.”

“Nó mới được bảy tháng tuổi, nó chỉ biết bú mẹ thôi.”

”Vậy hãy tặng nhan sắc ấy cho người con thương yêu.”

“Người đó là chú.”

Hai người lại nằm trên võng. Đó là cõi riêng của họ. Một già một trẻ. Một cõi vô thanh, tĩnh mịch.

“Tại sao con lại yêu một người già như chú?”

“Vậy tại sao chú lại yêu một đứa con nít như con?”.

Vì đó là hạnh phúc. Vì đó là trời và đất, là sự giao phối giữa gió và biển cả, giữa mây và núi.

Lúc ấy điện thoại của Đào reo lên.

“Cho chị nói chuyện với bố.”

“Sao chị không gọi vào máy bố?”

“Vì chị biết bố đang ở bên em.”

Bù Khú tiếp lấy điện thoại.

“Anh nghe”

“Em xin lỗi.”

“Vì sao?”

“Vì em đã hứa sẽ lấy anh.”

“Không sao. Em chưa nghe hết chuyện của hai mươi bảy bà mà.”

“Dạ. Nhưng em biết là anh nói đùa. Anh không còn bà nào nữa đâu. Có nghĩa là em đã nghe hết chuyện các bà vợ của anh rồi, nhưng em biết anh rất yêu bé Đào, em không có chỗ để xen vào.”

“Thì sao?”

“Thì chúc anh hạnh phúc.”

“Anh cũng chúc em hạnh phúc.”

Bù Khú đưa điện thoại cho Đào.

“Ngọc chúc chú và con hạnh phúc. Chú cũng chúc Ngọc như thế.”

*

Nhạc dứt. Và đám khiêu vũ cũng dừng lại. Giám Đốc Sở không muốn phát biểu nên nhường cho Bù Khú.

-Thưa bà con hai họ…

Tiên Sinh không quen nói, ấp úng một lúc rồi mới giới thiệu khách mời và tuyên bố hôn lễ bắt đầu. Tiên Sinh và Giám Đốc, hai người đứng hai đầu bàn thờ.

Cô dâu và chú rể từ phía trong bước ra. Cô dâu mặc áo soirée trắng, khép nép nhưng thanh thoát.

Họ là một cặp rất đẹp. Sang trọng, trang nhã và rực rỡ. Họ đứng bên nhau, làm lễ bàn thờ gia tiên rồi quay sang làm lễ thân sinh. Bảo vái Bù Khú, Ngọc vái Giám Đốc. Nhưng khi cô cúi xuống thì cô nhìn thấy hai bàn tay của Giám Đốc đang run rẩy. Ngạc nhiên, Ngọc ngước lên và chạm phải một gương mặt.

Đó là gương mặt của Nghiệp Chướng. Nó không xương xẩu như mặt thần chết, nó không nanh ác như mặt quỷ Sa Tăng, không trắng bệt như Ngạ Quỷ…Nó tái mét, thất thần, hoảng sợ.

Ngọc cũng hoảng sợ. Cô quỵ xuống. Mọi người ai cũng nghĩ rằng cô đang sụp lạy bố chồng nhưng không thấy cô đứng dậy. Cho tới khi Bảo đến đỡ vợ dậy thì cô ngửa mặt lên trời, bật cười.

-Oan nghiệt! Sao không giết tôi đi!

Rồi Ngọc bỏ chạy vào trong. Tất cả im lặng. Không ai biết chuyện gì. Bảo cũng ngơ ngác. Anh chạy theo vợ. Ngọc đang cởi bỏ áo cưới, mặc bộ đồ jeans thường lệ. Cô đang ngồi tại bàn trang điểm. Cô đang tẩy trang. Bình tĩnh, chậm rãi và lì lợm.

-Chuyện gì vậy?

-Không có gì.

-Anh có lỗi gì sao?

-Anh không có lỗi gì. Anh và em đều đáng thương như nhau. Anh đã có một người cha khốn nạn. Hắn chính là Sếp Lớn của em khi em còn làm nhân viên mát-xa. Hắn đã cưỡng hiếp em ngay trong phòng của hắn.

Bảo hét lên:

-Im đi!

Tiếng thét làm vỡ tung hôn lễ. Tiếng thét xô dạt mọi người ra khỏi khuôn viên ngôi biệt thự màu trắng. Tiếng thét làm đứt phực bốn sợi dây của chiếc vĩ cầm. Nắp thùng piano đóng sập xuống. Những đứa trẻ ăn mặc như thiên thần oà khóc.

Giám Đốc biến mất như một kẻ trộm. Ông lái xe ra cổng sau, suýt tông vào cánh cửa cổng. Nhưng vừa ra đến đường thì một giọng nói đã vang lên từ sau lưng:

-Tấp vô lề!

Giám Đốc ngoái lại, chạm phải hai ngọn lửa từ tròng mắt của một chàng trai.

-Đừng nóng. Ba sẽ giải thích.

Nhưng cú đấm đã đi trước lời giải thích khiến ông phải thắng gấp. Giám đốc bị bể trán, máu rịn xuống mí mắt.

-Mày muốn gì? Tao sẽ nhốt mày bây giờ.

-Ông dám không? Tại sao ông cưỡng hiếp vợ tôi?

-Lúc đó nó là nhân viên của tao.

-Nhưng ông đã gây ra bao nghiệp chướng. Tại sao ông bỏ mẹ tôi? Ông có biết vì sao mà bé Nhung nghiện ma túy không? Nó là con nghiện trong khi cha nó buôn bán ma túy, cha nó là chủ vũ trường, chủ khách sạn, chủ bia ôm. Ông vừa là cán bộ cao cấp vừa là chủ chứa. Ông dám nhốt tôi không?

Giám Đốc lấy khăn tay thấm máu.

-Ba xin lỗi. Để ba đưa con về.

-Không cần. Tôi gặp ông lần này chỉ để nói: ông vĩnh viễn không bao giờ là cha tôi. Ông là một thằng đê tiện!

*

Trong tiệc cưới chỉ còn lại Bù Khú ngồi tiếp tục uống rượu một mình nơi chiếc bàn lẻ loi.

Đêm đến, chỉ có một ngọn đèn nhỏ dưới bếp, le lói như con đom đóm lạc bầy. Những cái bàn trống, không có thức ăn. Những ngọn nến trên bàn thờ gia tiên đã cháy hết, đã tàn lụi. Rượu trong bình cũng cạn. Nhưng Bù Khú không dậy nổi. Ông gục mặt trên bàn và chìm vào cơn say nặng nề.

Ông không biết ở một góc tối của khu vườn, có một người con gái đang ngồi bất động. Khi sương khuya bắt đầu xuống cô mới đứng dậy, đến bên Bù Khú.

-Chú ơi. Về nhà. Đã khuya lắm rồi.

Bù Khú gượng đứng dậy.

-Đào hả con? Hãy đi tìm Ngọc. Cổ sẽ chết đấy.

Đào hoảng hốt chạy vô buồng trong tìm kiếm nhưng tất cả đều trống trơn, lạnh ngắt. Cô gái chạy ra cổng.

*

Nửa đêm Bù Khú về đến cái am nhỏ của mình và rất ngạc nhiên khi thấy đèn trong nhà vẫn thắp sáng.

Ông xuống xe và nhìn thấy một chiếc ghe nhỏ chở dừa đậu sát mé nước. Trong ghe thắp một ngọn đèn dầu leo lét nhưng không có ai cả.

Bù Khú dựng xe ngoài hiên, đẩy cửa bước vô. Bên trong là một sân khấu bi kịch đợi sẵn. Nhung, bé Tùng và một người đàn bà xa lạ đang bị còng tay ngồi dưới đất. Bốn người đàn ông có vũ trang ngồi rải rác trên những chiếc ghế gỗ. Bù Khú đứng im quan sát sân khấu, chưa kịp mở lời thì chiếc còng số 8 đã khóa chặt hai cổ tay.

-Chuyện gì đây?

Một người công an mặc sắc phục chỉ những gói giấy đang để trên bàn:

-Đây là số ma túy chúng tôi tìm được trong nhà ông.

-Vô lý. Làm gì trong nhà tôi có ma túy. Hơn nữa các ông không có quyền khám nhà khi tôi vắng mặt.

-Chuyện đó ông sẽ nói ở cơ quan điều tra. Ông có thấy chiếc ghe nhỏ đậu ở bến sông không? Chúng tôi đã theo dõi nó trong nhiều ngày và nó đã đem số ma túy đó đến đây. Những người này quan hệ thế nào với ông?

-Hai cô cậu này là người giúp việc cho tôi còn người đàn bà này là ai tôi không biết.

-Cô Nhung và cậu Tùng ở trong nhà ông đã sáu tháng nay nhưng ông không đăng ký tạm trú. Nhung có tiền án là buôn bán ma túy, vượt ngục về đây. Tùng là thằng nhỏ móc túi, giựt đồ chuyên nghiệp cũng dùng nơi này làm chỗ xuất phát. Ông đã chứa chấp tội phạm trong một thời gian dài và không loại trừ khả năng ông là đồng phạm.

Bù Khú cười lớn:

-Kết luận thật đơn giản! Có lẽ tôi là người có nhiều danh hiệu nhất thế giới: cán bộ kháng chiến, trí thức yêu nước, nhà báo, kẻ sát nhân, kẻ buôn bán ma túy, chứa chấp trộm cướp và gái điếm… vậy rốt cuộc tôi là ai?

*

Trong góc tối của một cuộc vui đã tàn, Đào tìm thấy người đàn bà ấy. Cơn điên đã đi qua, bỏ lại những cái xác đẫm men rượu, phiêu hốt trong ảo giác ma túy nằm la liệt trên sàn nhảy.

Cuộc thảm sát của tiết tấu, ánh sáng và chất kích thích đã bày biện trên chiến trường của nó những cá thể im lặng, nằm ngồi trong nhiều tư thế. Tất cả đang chìm đắm trong cõi riêng ma quỷ, đồng bóng.

Chỉ có Ngọc là tỉnh táo. Tâm hồn cô cạn khô như đáy một con sông đã bốc hơi trong sa mạc đổ lửa. Và cô ngồi bất động như cây xương rồng tàn héo.

-Em ngồi với chị được không?

-Ngồi đi. Em đến đây làm gì?

-Em đi tìm chị. Mọi người đã bị bắt hết rồi.

-Vậy tìm chị để làm gì?

-Để cứu bố.

-Thế thì ai cứu mình? Có thể cứu được một xã hội quỷ quyệt không? Có thể thoát khỏi quyền lực của bọn Mafia không?

-Vậy phải làm gì?

-Chạy trốn.

-Trốn ở đâu?

Hai người đàn bà trẻ bước ra khỏi vũ trường lúc gần sáng. Đường phố ngái ngủ trong cơn gió bấc nhẹ nhưng cũng đủ rải những lá khô trên cao bay nghiêng nghiêng xuống. Bầu trời xám đục, vương vấn một chút sương mù.

Có lẽ họ là những bộ hành đầu tiên của con đường. Họ đi chậm, đi lẩn vào buổi sáng, đi lẩn vào những cơn gió.

Ngọc nói:

-Thôi, chúng ta chia tay. Chị sẽ về quê.

Đào im lặng. Buổi sáng co rúm lại. Buổi sáng làm cho cô gái xanh xao, mong manh.

-Còn em, không biết đi đâu.

  1. NGƯỜI

QUÊN LÝ LỊCH

Bù Khú đang nằm trên cái bục xi măng lở lói trong một trại cải tạo sâu trong rừng. Lão cố ngủ nhưng không ngủ được vì mấy thằng tù trẻ đang đánh bài, la lối, tranh giành mấy cái tàn thuốc rê, mấy miếng kẹo đậu phộng.

Bù Khú nằm ngửa, lơ mơ nhìn mái lá trên cao, lão mơ hồ về thân xác của mình, thấy như nó đang mùn ra, lạnh tanh như miếng gỗ mục bị sóng đánh dạt lên bờ biển.

Lão câm lặng, chậm chạp như con rùa đen, như cục đất thó lẫn lộn dưới chân tường trại giam.

Lão bị ném vào nhà tù này như một bãi cứt, thải ra từ con cò vừa bay qua đây. Con chim lớn màu trắng ấy không nhớ gì đến cái của nợ vừa thải ra ấy. Và chắc cũng chẳng ai biết đến cái bãi phân vô định này.

Bù Khú đã bị thất lạc, bị đánh mất, xấu xí, vô giá trị, thừa thãi và có mùi thum thủm.

Mấy thằng tù trẻ lại chửi thề và rượt đánh nhau. Thằng Điểm mặc cái quần xà-loõng màu nâu già, dài quá gối, mông đít sờn rách. Hồi mới vô trại, tóc nó dài, khô cứng, rối như cái nùi giẻ nhưng cán bộ quản giáo đem húi trọc, bây giờ nó giống thầy chùa nếu như hai cánh tay không có xâm hình hai con gà đá.

Cán bộ quản giáo ló mặt vô cửa, thổi còi rét rét. Tụi tù nhảy thót lên bục xi măng như những con cóc ngồi chồm hổm ngó ra cửa.

-Cờ bạc hả?

Im lặng. Gã cán bộ cầm cây roi bước vô, chỉ mặt từng thằng.

-Bộ bài đâu?

Thằng Điểm chỉ ngón tay về phía Bù Khú đang nằm ngủ. Cán bộ phết một roi vô đùi Bù Khú làm lão ngồi bật dậy. Cán bộ chỉ roi vô mặt lão:

-Đưa bộ bài đây!

-Bộ bài nào?

-Ông giấu nó ở đâu?

Thằng Điểm nói:

-Lão giấu trong háng đó xếp.

Rồi nó và mấy thằng nữa nhào tới đè Bù Khú xuống, tụt quần lão. Bộ bài văng ra. Trong cái háng ốm nhách của Bù Khú chỉ còn lại một con cu đen thui, thun lại như con đỉa. Tụi trẻ cười cợt:

-Hết xí-oách! Hết hạn sử dụng rồi!

Bù Khú cởi quần ra, giũ mấy cái, một lá bài còn sót văng ra nền đất, Lão cúi xuống nhặt lên. Đó là một con đầm cơ. Lão đưa nó cho cán bộ rồi chậm chạp mặc lại quần. Lão nói:

-Tôi không có bộ bài này.

Gã cán bộ có vẻ tin lão. Gã cất bộ bài vô túi quần, bước ra ngoài.

Lúc đó có hồi kẻng. Những con cóc đang ngồi chồm hổm trên bục xi măng đều nhảy xuống đất biến thành một đám tàn quân ô hợp rách rưới, xâm mình, vàng bủng, tóc tai bù xù man rợ.

Chúng bị lùa ra khỏi trại. Vài ba đứa đội mũ vải và nón lá, chúng đi nghiêng ngả quanh các gốc cây cháy sém.

Đám tù như một bầy đàn lố nhố, đi lại, đào bới trong một cái trảng trống bên dòng suối. Chúng đang đào một cái mương nhỏ dẫn nước suối vô vườn rau.

Bù Khú lạc lõng trong đám lao động khổ sai ấy như một con bò già, lòi xương vai, xương sườn, hai ống chân khẳng khiu, đen đúa như một gã người Somali. Lão vác cái cuốc cùn, chân mang dép râu. Lão bứng các gốc cây chồi nhỏ còn sót lại trong đường mương khô cạn. Lão vừa làm việc vừa bứt đọt lá non nhai tóp tép như khỉ.

Thằng Điểm đi ngang trước mặt lão, ném cây xà beng xuống đất.

-Ê, bố già! Ông đâu phải dân ghiền.

-Tao có ghiền đâu.

-Ông bán thuốc phiện mà không chơi à?

-Tao có bán đâu.

-Xạo.

Nó ngồi xuống một tảng đá, lau mồ hôi.

-Bố già nè! Đi theo tui.

-Đi đâu?

-Có cái này hay lắm.

-Cái gì?

-Có phải hồi trước bố là bộ đội không?

-Ừ.

-Bố muốn trốn trại không?

-Muốn chết hả?

Thằng Điểm nhổ một bãi nước bọt.

-Bố già nè! Có muốn coi không?

Nó giựt cái cuốc của Bù Khú, vác lên vai rồi bỏ đi. Bù Khú lửng thửng theo nó.

Tới bờ suối, ngó trước ngó sau, nó chém vè vô một lùm gai nhọn. Bù Khú vừa bước tới đã bị nó đẩy vô lùm gai đó.

Không ai biết bên trong có mấy tảng đá khá lớn bị những cành gai phủ kín mít. Thằng Điểm chui vô cái hang nhỏ, moi đất lên, lộ ra một thùng đạn cũ nhưng chưa đến nỗi rỉ sét. Nó kéo thùng đạn ra khỏi đất.

-Bố mở ra đi.

-Mày kiếm ở đâu vậy?

-Trong lúc đào mương, con tìm được. Hồi trước chắc chỗ này có đóng quân. Bố mở thùng đạn ra đi, coi đạn này là của Mỹ hay của Việt cộng?

Bù Khú mở nắp. Một khẩu colt 45 và 4 trái lựu đạn da láng M26. Ông mở băng đạn khẩu Colt, thấy đạn còn tốt. Bù Khú nói:

-Của Mỹ.

-Cho bố chọn. Dám chơi không?

-Không. Tao có tội gì đâu mà phải trốn.

-Nhưng ai tin bố. Ông không chơi tui cũng chơi. Đù má ở trong này chịu không nổi.

Thằng Điểm giấu cái thùng đạn vào chỗ cũ, lấp đất lại, lấy hòn đá đè lên. Hai người chui ra khỏi bụi gai.

-Mày có vợ con gì chưa? Bù Khú hỏi.

-Có vợ nhưng không biết lưu lạc xứ nào. Còn ông?

-Tao hả? Tao là cái con cặc. Không có lý lịch.

-Đù má. Ông nói kiểu đó tui biết ông là dân giang hồ. Sao ông nhát vậy?

-Tao thích ở tù.

-Tùy bố. Nhưng chuyện này chỉ có con và bố biết thôi nha. Bố mà xì ra là con xử bố liền đó nha!

-Mày yên tâm. Tao đã nói tao là cái con cặc mà. Có ham muốn gì nữa đâu mà nhiều chuyện.

-Ok. Cặc bố hết xài rồi. Có gì phải lo.

 

  1. SÁT THỦ

TRONG TRẠI GIAM

Sân khấu là cái bục xi măng. Xúm xít quanh thằng Điểm có năm đứa, trong đó có một thằng rất to con, giống như con lai, tên nó là Bôn (Paul). Những đứa khác nằm vắt vẻo khắp nơi. Bù Khú thì ngồi hút thuốc rê một mình trong xó.

Đó là một buổi tối rất im lặng. Ngọn đèn vàng mờ đục giữa trần nhà, chỉ đủ ửng lên một chút sáng ẩm mốc giữa màn đen bất tận của rừng đêm, chỉ đủ khoét một cái lỗ sáng lù mù trong khoảng tối dày đặc không đáy.

Thằng Điểm giơ ba lá bài ra trước mặt mọi người. Nó nói:

-Nhìn kỹ nha. Con Ách cơ ở mé bên trái. Bây giờ tao rút nó ra, đặt xuống. Có phải trên tay tao còn con Tám chuồn và con Năm bích không?

-OK. Thằng Bôn nói.

Điểm bào thằng Bôn:

-Con ách cơ đang nằm dưới đất. Mày lấy ngón tay đè lên nó đi.

Thằng Bôn đè ngón tay lên lá bài. Điểm vẫy tay một cái, lập tức con Năm bích trên tay nó biến thành con Ách cơ. Bôn ngạc nhiên, lật lá bài dưới đất lên thì là con Năm bích.

Điểm búng tay, chộp gói thuốc Jet đang nằm trước mặt thằng Bôn nhưng cổ tay nó đã bị Bôn nắm chặt. Thằng Điểm sừng sộ:

-Đù má. Mày không chung cho tao hả?

-Có bản lãnh thì lấy đi.

Bôn nói và siết chặt mấy ngón tay làm thằng Điểm la oai oái, buông rơi gói thuốc lá. Nó trừng mắt nhìn thằng Bôn.

-A, mày ngon hả? Coi chừng tao.

Nó chỉ nói vậy rồi cất ba lá bài vào túi, lẵng lặng đi ngủ. Thằng Bôn cũng đút gói thuốc lá vô túi, đứng lên. Nó nói:

-Tráo bài. Ăn gian!

Chín giờ. Điện tắt. Bọn tù làm việc mệt nhọc cả ngày cũng chẳng thằng nào muốn thức khuya. Chúng bắt đầu ngáy.

Sáng sớm, khi tiếng kẻng chưa kịp vang lên thì đã có người lục đục đi đánh răng ngoài chái nhà. Bên ngoài sương mù dày đặc, cây cỏ chìm khuất. Những ngọn cây rừng nổi trôi bồng bềnh, ẩn hiện nhiều tầng.

Tất cả đều lơ lửng. Sương tràn ngập như một đại dương, những đỉnh núi nổi lên như những hòn đảo.

Khi tiếng kẻng vang lên thì trời sáng hẳn, sương cũng tan dần, những thân cây rừng hiện ra rõ hơn phía xa, tạo cho buổi sáng một chiều sâu quyến rũ. Rồi bỗng nhiên tiếng một con chim lạ đổ dài làm mọi thứ bừng tỉnh.

Thằng Bôn kéo cái túi xách của nó từ trong xó ra. Nó tìm cái khăn mặt nhưng những ngón tay của nó lại chạm phải một vật gì tròn tròn như quả quít được gói trong cái khăn lông của nó thành một cuộn, chặt như đòn bánh tét. Nó rờ rẫm, bóp nắn cái vật lạ ấy. Không phải trái cây vì rất cứng. Cứng như sắt, rờ dần lên thấy có một cái cổ ngắn và một cái cần cũng bằng kim loại. Tại sao cái vật này lại nằm trong xách tay của mình? Tại sao nó lại được gói rất chặt trong chiếc khăn mặt? Ai đã gói cái vật ấy và bỏ vào túi xách của nó?

Nhưng rốt cuộc đó là vật gì?

Thằng Bôn cầm cái “đòn bánh tét” ấy lên, kéo một đầu chiếc khăn mặt để tháo lần ra. Ban đầu nó tưởng đó là một trái banh billard hay một cái ly tròn bằng thủy tinh, nhưng vật ấy nặng quá. Nó kéo nhích một chút nữa thì lòi ra một cái mỏ vịt màu cứt ngựa. Chỉ cần nhích cái khăn lông chút xíu nữa là cái mỏ vịt bung ra. Nó khiếp đảm hét lên:

-Lựu đạn! Cứu tôi! Cứu!

Những ngón tay nó siết chặt lấy trái lưu đạn M26 đã được rút chốt sẵn. Đám tù hoảng hồn chui xuống gầm bục xi măng. Phía ngoài cổng có tiếng cán bộ quản giáo:

-Chuyện gì đó?

-Lựu đạn. Rút chốt rồi. Mau cứu!

Cán bộ cũng không dám vào. Thằng Bôn run lập cập. Cả hai chân nó cũng run.

Có một giọng khàn đục vang lên:

-Nắm chặt! Buông ra là chết cả đám.

Bù Khú bước tới. Bằng kinh nghiệm chiến trường của mình lão tóm gọn cái mỏ vịt trong tay thằng Bôn như siết cổ một con rắn. Chiếc khăn lông rơi xuống đất. Mặt thằng Bôn xanh lè. Nó khóc mếu máo. Cán bộ quản giáo vừa tới.

Bù Khú hỏi:

-Các ông có cái chốt an toàn nào không?

-Chốt ở đâu mà có! Ném nó xuống ao đi.

Bù Khú tung quả lựu đạn. Một vệt khói vẽ theo đường rơi. Rất may nó nổ dưới mặt nước.

*

Trong khi cán bộ an ninh hỏi cung Bôn thì Bù Khú gặp thằng Điểm.

-Tao biết ai làm chuyện đó rồi.

Thằng Điểm làm thinh, rồi nó ghé vô tai Bù Khú:

-Ông mà tố cáo, tui giết ông liền.

-Không cần tao tố cáo. Người ta đang hỏi cung thằng Bôn. Lát nữa họ sẽ vô còng đầu mày cho mà coi.

Thằng Điểm nhìn Bù Khú với cái nhìn u ám. Nó hỏi:

-Bây giờ làm sao, hả bố?

-Mày làm thì mày phải chịu chứ. Sao mày ác quá vậy? Chỉ vì một gói thuốc lá.

-Chẳng lẽ ngồi im chờ chết sao?

-Trốn đi.

Nhưng nó chưa kịp đứng dậy thì bốn người an ninh đã xách AK bước vô trại. Thằng Điểm bị còng tay dẫn đi.

-Mày lấy lựu đạn ở đâu?

-Không phải em. Em không biết gì cả.

-Tối qua mày và thằng Bôn tranh nhau gói thuốc lá, đúng không?

-Dạ đúng. Nhưng em không có hại nó.

-Mày có hăm dọa nó không?

-Em chỉ nói: “mày coi chừng tao.”

-Câu đó có nghĩa như thế nào?

-Em bị nó bóp tay đau quá nên nói vậy thôi. Chỉ vì tự ái.

-Trong trại chỉ có hai đứa mày xích mích với nhau. Chẳng lẽ có đứa nào khác làm chuyện đó sao?

-Em không biết. Và em cũng không có lựu đạn. Ở trong trại giam này em lấy đâu ra lựu đạn?

-Đó là câu mà tao muốn hỏi mày. Thực ra tao đã biết lựu đạn ở đâu mày có. Mày suy nghĩ kỹ đi. Mày phải thành thật khai báo, nếu không tao sẽ giao mày cho an ninh điều tra. Mày biết tội gì không?

-Em không biết.

-Mày có hai tội: tàng trữ vũ khí bất hợp pháp và mưu sát.

Người nhân viên an ninh mở còng cho nó, anh ta nói:

-Tao khoan hồng cho mày về trại. Đêm nay suy nghĩ kỹ, ngày mai thành thật khai báo sẽ được giảm tội.

Khi thằng Điểm về trại, mọi người đều xa lánh nó. Nó biết thân nên cũng không lại gần ai. Không khí trong trại thật ảm đạm. Không ai nói tiếng nào. Lúc gần tắt đèn, Bù Khú đến bên nó, mồi cho nó điếu thuốc. Nó thầm thì, lén lút:

-Bố ơi, cứu con với.

Bù Khú nói lớn cho mọi người nghe:

-Mày hãy tự cứu mày. Cứ khai đúng sự thực. Đó là cách tốt nhất.

Rồi ông bỏ đi. Nhưng rồi ông dừng lại, vì thấy cần phải nói thêm một câu nữa:

-Nếu quả thật trái lựu đạn ấy là của mày thì mày cứ khai ở đâu mà có, may ra sẽ được giảm tội.

Bù Khú leo lên cái bục xi măng, nằm quay mặt vô vách.

*

Sáng hôm sau trong trại xôn xao vì là ngày thăm nuôi. Bù Khú ngủ muộn. Thực ra ông đã thức dậy lúc hai giờ sáng và không ngủ lại được. Đến bốn giờ rưỡi chợp mắt được một chút thì mọi người đã nhốn nháo.

Ngày chủ nhật đầu tháng. Đó là ngày lão ghét nhất. Vì là ngày thăm nuôi. Bọn tù làm ồn. Chờ đợi gọi tên cũng ồn, gặp người thân cũng ồn, gặp xong vô kiểm quà cũng ồn. Xin xỏ, năn nỉ, chửi bới, văng tục, khóc lóc, đánh lộn. Đó là ngày bát nháo nhất trong tháng. Và nó chẳng dính dáng gì tới Bù Khú. Lão đếch có ai thăm nuôi. Đã bốn tháng rồi. Trại tù cho gì ăn nấy. Có dịp ra ngoài lao động, ăn thêm lá rừng, lục lọi mấy trái bứa, trái sim, trái me… nhưng cũng bị tụi tù vặt sạch từ lâu, chỉ còn mấy thứ còi cọc, sống sít, chua chua chát chát…

Lão ngáp. Lão cố ngủ. Thằng Điểm cũng vậy, chẳng ai thăm nuôi nó. Nó ngồi im trong xó. Hôm nay chủ nhật có lẽ không ai rảnh mà hỏi cung nó. Nó ngủ ngồi. Nó bất động như một đống thịt đang bị ôi, đang bốc mùi. Nó gọi:

-Bố ơi!

Nhưng Bù Khú không trả lời. Lão nhắm mắt nhưng vẫn nghe rõ tiếng cánh cửa phòng giam đóng mở, tiếng chân người, tiếng gọi nhau ngoài hàng rào. Chúng cứ dồn tới, ập tới rầm rì như cái chợ xổm. Đến một lúc thì lão rơi vào trạng thái lơ mơ, được chút xíu thì có ai đập vào mông.

-Bác Mười Bù. Có người thăm nuôi.

Lão mở mắt.

-Cái gì?

-Thăm nuôi kìa.

-Ai?

-Ông chớ ai. Lẹ lên! Người ta gọi tên hai lần rồi đó.

Lão ngồi dậy, kéo vạt áo chùi cái mặt. Lão bước ra khỏi cánh cửa sắt, chói mắt vì ánh nắng. Lão thấy có bàn tay ngoắc ngoắc bên song cửa sổ phòng đợi. Dường như đó là một cô gái. Lão nhìn thấy một cánh tay ốm yếu. Lão mừng quá. Như người cha gặp lại con mình sau nhiều năm thất lạc trong chiến tranh.

Lão ngồi xuống cái băng dài, đối diện Đào.

-Con ơi, chú tàn tạ quá phải không?

-Chú rất là phong trần.

-Sao con biết chú ở đây?

-Con đi tìm suốt ba tháng nay, người ta chỉ lung tung, lúc thì Bố Lá, Lúc thì Xuyên Mộc, lúc thì Tân Hiệp, lúc thì Xuyên Sơn. Cuối cùng là đây.

Đào bày các thứ quà lên cái bàn tre. Bù Khú hồi hộp. Không dám cầm bàn tay cô gái.

-Chú thật không ngờ được gặp lại con. Có phải con đem cá hố chiên mặn không?

-Chính xác! Còn có cà pháo muối nữa. Chú ăn đi.

Bù Khú ngồi gặm miếng cá hố chiên như ngày còn ở cái am nhỏ trên bến sông. Đào đi vòng ra sau lưng ông, người cô ép sát vào lưng ông, cô dùng những ngón tay của mình chải tóc cho ông, rồi vạch từng cái chân tóc, chậm chạp, cẩn trọng, âu yếm. Cô thấy có nhiều sợi tóc đã bạc, nhiều chòm đã ngã màu muối tiêu. Và cô cứ vuốt ve từng nhúm tóc như thế, mê mải, thật chậm, thật nhẹ như muốn gởi tấm lòng của mình vào mái đầu của một con người mà cô biết rõ còn hơn biết chính bản thân mình.

Bù Khú ngồi ăn và lắng nghe những ngón tay của cô gái hòa nhập vào tâm hồn mình qua ngả những sợi tóc, qua ngả những cảm xúc mềm mại trên da đầu.

Ông thấy rõ ràng những ngón tay của cô đang thủ thỉ với những sợi tóc, đang nũng nịu, đang trách móc. Và những ngón tay ấy đang hôn hít tâm trí ông, đang ủ giấc mơ thầm lặng, ngậm ngùi của ông bằng hơi ấm của da thịt con gái.

Rồi bỗng nhiên một giọt nước ấm rơi trên đỉnh đầu ông, rồi một giọt nữa, vỡ ra dưới chân tóc, thấm vào da đầu, lan tỏa một thứ hơi ấm nồng nàn của tuổi trẻ.

Nhưng tiếng kẻng đã giằng họ ra, bứt họ ra khỏi cuộc hoan lạc thần thánh đó.

Đào khóc thút thít. Cô níu chặt cánh tay ông khi ông bước ra khỏi phòng đợi để trở về trại.

-Con về đi.

-Con đứng đây nhìn chú vô trại rồi con mới về. Chú đi đi. Con không sao đâu mà.

Rồi Đào ôm cổ ông, nhón gót để hôn lên trán ông. Ngay lúc đó có tiếng của một oan hồn, hay của một con sói, một con ma trơi từ trong rừng sâu bay ra. Tiếng nó lạnh và tanh tưởi như một ngọn gió vừa bay qua bãi tha ma đầy xác người.

-Đào ơi! Đào ơi! Anh là Điểm đây!

Đào lạnh xương sống. Cô lắng nghe.

Nó lại gọi:

-Đào ơi! Anh là Điểm đây!

Cô gái run rẩy ôm chặt lấy Bù Khú.

-Chết rồi chú ơi. Đúng là nó rồi. Sao nó lại ở đây? Nó sẽ giết con mất.

-Nó không làm gì con được đâu. Con đi đi. Chú sẽ tìm cách liên lạc với con sau.

-Nhưng chừng nào mới gặp lại chú?

-Chú sắp về rồi. Vì chú không có tội gì cả.

Đào quay lưng đi. Gần như bỏ chạy. Nhưng trong trại giam có sự hỗn loạn. Một tiếng súng nổ rồi một bóng người vụt ra. Đó là thằng Điểm.

Lúc ấy Đào vừa ra khỏi cổng trạm gác. Thằng Điểm chạy trước, hai bảo vệ cầm ma-trắc rượt theo. Nó xông vô trạm gác, dùng khẩu colt 45 khống chế lính gác, đoạt lấy cây AK, chạy đuổi theo những người đi thăm nuôi.

Nó đi chân đất, quần áo tơi tả, một bên bả vai rách toạc ra, để lộ hình xâm con gà đá. Nó vừa chạy vừa kêu lên:

-Đào ơi! Đợi anh với!

Nó bắn mấy phát chỉ thiên khiến những người đi thăm nuôi phải nằm rạp xuống đất. Đào cũng lăn lóc trong đám người hỗn loạn ấy. Cô biết khi nó nổi cơn điên thì nó sẽ làm gì. Cô đã từng bị nó bóp cổ đến lè lưỡi ra, tím mặt, từng bị nó trói, treo lên nhánh cây, từng bị nó dìm xuống nước ngạt thở.

Hai người bảo vệ đã đuổi kịp nhưng không dám tiếp cận nó. Họ núp sau những gốc cây lớn.

-Buông súng đi! Không tụi tao bắn.

Thằng Điểm xoay người lại, bứt tung ngực áo:

-Bắn đi! Dám chơi không?

Và nó cứ ngang nhiên đi lại, sục sạo đám người đang nằm chết khiếp dưới đất.

-Đào ơi! Anh sẽ dẫn em về quê.

Một bảo vệ quyết định bắn vào khẩu AK nó đang cầm. Khẩu tiểu liên văng xuống đất và thằng Điểm cũng nhào xuống bờ mương. Nhưng nó vẫn còn một khẩu colt 45 trong túi quần. Nó bò lên con đường đất đỏ và bắn một phát súng thị uy. Cả một góc rừng náo loạn.

Đào thấy nó lại gần liền bỏ chạy về phía Bù Khú lúc ấy cũng đang đi tìm cô. Nhưng  Điểm đã sấn tới, thộp cổ. Tay trái nó chẹn họng, tay phải có chĩa nòng súng vô lỗ tai cô gái.

-Trốn hả? Chúng ta cùng trốn.

-Nhưng tui không ở với anh nữa. Anh tha cho tui.

-Mày là vợ tao, tại sao mày không ở với tao?

-Vì anh đã bán tôi cho ổ điếm. Vì anh đã trấn nước tôi, đã trói tôi ngoài nắng. Anh hành hạ tôi như con chó ghẻ. Tôi không sống với anh nữa đâu.

-Không có thì giờ. Chạy!

Và nó kéo Đào như kéo một con mèo.

Bù Khú nhân lúc hỗn loạn cũng lẻn ra khỏi trạm gác, đuổi theo. Ông chỉ có hai tay không.

Ông gọi:

-Điểm ơi! Cháu lo chạy một mình cháu đi. Trốn hai người không được đâu. Người ta đuổi theo cả đám kìa.

Nhưng nó như thằng điên, nó kéo cô gái băng qua gai gốc, bụi bờ. Nó không thèm nói một tiếng.

-Điểm ơi. Người ta sẽ bắn chết cháu đấy. Bỏ con Đào ra đi. Nó là cháu của chú mà. Chú sẽ lo cho nó.

Thằng Điểm trả lời bằng một phát súng làm tung bụi lên mặt Bù Khú khiến ông phải núp vào một gốc cây. Bốn người lính trong trại cũng vừa tới, đạn cày nát mặt đất. Thằng Điểm chạy ra bờ suối, hướng về phía bụi gai, nơi có hang đá.

Những người lính bao vây xung quanh.

Bù Khú nói:

-Đừng bắn!

Nhưng bọn lính đã xả nguyên một băng vô cửa hang.

-Đầu hàng đi! Mày không thoát được đâu.

Điểm trả lời bằng một khối lửa và một tiếng nổ rung chuyển. Thịt xương tung tóe cửa hang. Đó là một đòn xóa sổ, điên dại, man rợ và dứt điểm bằng sự im lặng chết chóc.

Bù Khú ẩn mình trong bụi gai. Thằng Điểm thoát ra khỏi hang, mặt đầm đìa những máu. Nó cõng Đào trên lưng, mềm rũ như một con hoẵng đã chết.

Nó chạy khập khiễng vào trong rừng sâu như một con đười ươi què. Nó băng nhầu vào gai góc và bụi rậm. Tay cầm khẩu colt.

Bù Khú bám theo nó từng bước, rón rén, dè chừng. Nó đang tìm một chỗ hẹp nhất để lội qua suối nhưng dường như nó đã kiệt sức vì thương tích đầy mình. Cuối cùng nó quyết định lội xuống nước. Trên lưng nó, Đào rũ rượi và bất động. Nó cúi khom người, lấy thăng bằng. Nước không sâu nhưng chảy xiết. Nó lội ra chưa đến giữa dòng thì trượt chân. Đào bị văng xuống suối, nổi rập rềnh, xoay mấy vòng rồi trôi đi. Thằng Điểm thì chìm nghỉm, nó quẫy đạp yếu ớt, cố ngoi lên nhưng không được.

Bù Khú lao xuống suối, bơi theo Đào. Ông kẹp cô gái vào nách, thoát ra khỏi chỗ nước xoáy. Phía trên đầu nguồn, một cánh tay của thằng Điểm giơ lên. Nó chĩa mũi súng về phía Bù Khú, bắn một phát nhưng viên đạn vọt lên ngọn cây. Lại một phát nữa nhá lửa trên tảng đá lớn. Sau đó nó chìm lỉm. Mất tăm.

Bù Khú đưa được Đào qua bên kia suối. Ông đặt cô nằm trên một tảng đá bằng phẳng và làm những động tác hô hấp nhân tạo.

Ông hối hả, bối rối và tuyệt vọng. Ông thổi hơi vào miệng cô, ấn hai bàn tay lên ngực cô. Ông vừa làm vừa khóc. Có vẻ như cái tấm thân mềm mại ấy đã không còn sự sống.

-Đào ơi! Đừng chết! Chú yêu con!

Ông lại thổi hơi vào miệng, lại đè tay lên ngực, khóc hu hu như đứa trẻ con mất mẹ.

Ông muốn quay lại trại nhưng không biết chắc là hai người có thể vượt qua suối lần nữa không. Nước chảy xiết và lòng suối đầy bất trắc.

Ngay lúc ấy có tiếng gà gáy trong rừng, rồi tiếng động cơ xe máy. Bù Khú quyết định bế cô gái băng rừng với hy vọng sẽ gặp một bản làng nào đó.

Lát sau ông nhìn thấy một khoảng sáng.

Trước mặt ông là một trảng cỏ tranh dày đặc, không có lối đi. Cuối cùng ông quyết định băng về hướng có tiếng xe máy lúc nãy.

Cỏ tranh cứa nát da thịt ông. Máu từ trên trán và hai bên thái dương chảy vô mắt, chảy vào miệng ông mặn mặn. Ông cố nuốt lấy máu mình để lấy sức. Một con rắn hổ đất đen thui ngóc đầu lên từ trong lá cỏ rậm. Bù Khú đứng im. Hai bên nhìn nhau một lúc thì con rắn bỏ đi, lúc ấy ông nghe có tiếng dế kêu ran và một cái đồi trọc hiện ra trước mặt. Nó chỉ thoai thoải nhưng ông leo lên không nổi. Ông cố hết sức rướn người lên thì ngã ngửa ra. Đào văng xuống đất, nằm sấp, đè lên ngực ông.

*

Xế chiều có một cô gái người dân tộc từ trong rừng đi ra. Cô ta ngoài ba mươi tuổi, cao lớn, mặc xà-rông, lưng mang gùi. Cô đứng nhìn hai người đang nằm bất động, rồi cô ngồi xuống, lay gọi. Bù Khú mở mắt ra, giật mình, ôm Đào đặt xuống bãi cỏ.

-Xin hãy cứu cô gái này.

-Cô ấy đã chết rồi.

-Không. Cô ấy hãy còn sống.

Người nọ đặt gùi xuống đất rồi quỳ gối, áp tai lên ngực Đào.

-Trái tim không còn đập nữa.

Bù Khú nhắm mắt lại.

Người nọ bứt một sợi chỉ trên chiếc xà-rông, đưa lên ngang mũi của Đào.

-Không còn thở.

Bù Khú hỏi:

-Quanh đây có buôn làng không?

-Không.

-Vậy nhà cô ở đâu?

-Em sống trong rừng.

-Gia đình cô ở đâu?

-Ba mẹ em ở ngoài buôn. Nhưng em thích sống một mình trong rừng.

-Tên cô là gì?

-Ka Anh.

Bù Khú mượn cái xà-gạt của Ka Anh vẽ một hình chữ nhật dưới gốc cây rồi cào xới mặt đất. Ông vừa làm vừa khóc, nước mắt trộn lẫn với mồ hôi. Hai bàn tay ông rách toác, đầm đìa máu. Những ngón tay đỏ lòm cào xuống thớ đất mùn đen tơi tả, vốc lên từng nắm, từng nắm.

Ka Anh sử dụng cây xà-gạt mạnh mẽ, thành thạo. Cô dùng nó như một cái xẻng.

Họ đào huyệt mà như làm tổ cho một con chim lớn vừa rũ cánh.

Bù Khú bế Đào lên, ấp cô trong ngực, bước tới gần cái huyệt. Nhưng ông không nỡ đặt cô gái xuống cái hố sâu thăm thẳm ấy. Nơi đó chỉ có đất đen, côn trùng và rễ cây. Không có cả một manh chiếu rách. Sao chú lại có thể vùi con dưới cái huyệt mộ tối tăm này?

Tại sao con lại chết? Chú không thấy có vết thương nào trên thân thể con. Vẫn mềm mại, vẫn thanh thoát, bình yên như một giấc ngủ. Vậy mà không còn sự giao cảm, không một dấu hiệu của ý thức. Đào ơi, con đi đâu vậy? Con đã lìa bỏ cái thân xác này sao? Con không biết rằng từng ngón tay, từng cái lúm đồng tiền, từng nét môi, từng sợi lông mi của con đều rất quen thuộc với chú, vậy mà nó đã khép lại, không hề nhìn thấy tâm hồn chú đang tan vỡ, thân xác chú đang sụp đổ…

Đào ơi! Con đã bỏ đi đâu vậy? Con đang ở nơi nào? Trong cái hình hài thân quen này đang còn lại những gì vậy? Chẳng lẽ là rỗng không? Chẳng lẽ là vô tri vô giác?

*

Ngôi mộ chỉ là một nấm đất nhỏ, đơn độc ẩn mình dưới tàn cây. Họ ngồi nhìn vào khoảng rừng thưa nơi nắng sắp tắt.

Ka Anh nói:

-Mình ông đầy máu.

-Đó là do cỏ tranh.

-Ông có muốn em rửa vết thương cho ông không?

-Nhà cô ở gần đây sao?

-Đi chừng nửa giờ.

Hai người từ giã ngôi mộ.

Bù Khú hỏi:

-Cô đi đâu về vậy?

-Đi chợ. Em đem măng tre và củ mài ra chợ để đổi gạo và thức ăn. Em đi từ lúc bốn giờ sáng.

Ka Anh dẫn Bù Khú đi qua chiếc cầu gỗ để đến một cái sân rộng mọc đầy cỏ may. Nắng xế đã thắp trên từng bông cỏ ngọn lửa của nó, tạo ra một đám cháy ảo giữa thung lũng. Ngôi nhà sàn của Ka Anh nổi vật vờ giữa đám cháy ấy. Nó nhỏ như cái tổ chim và đã cũ kỹ, xám xịt.

Ka Anh nói:

-Chúng ta sẽ nhóm một bếp lửa. Sẽ không có muỗi và sẽ đỡ lạnh.

Ka Anh bước lên cầu thang. Nó được đẽo từ một thân cây thành những bực cấp.

Cô lấy cái que cời lửa, thả lửa ra từ lớp tro mỏng trong cái bếp tưởng chừng đã nguội lạnh. Ngọn lửa mọc lên như cái chồi cây đỏ tía rồi chợt bùng lên thành một quầng sáng mới mẻ, tươi tắn. Lửa như con chim vừa được thả ra khỏi cái lồng vô hình và đang xòe đôi cánh rực rỡ của nó. Hai người ngồi nhìn ngọn lửa. Họ vùi một ít củ khoai trong tro nóng và uống chè xanh. Bù Khú nói:

-Ở đây thật im lặng và tách biệt. Em đã sống như thế này trong bao lâu rồi?

-Từ khi em mới sinh con cho đến khi gởi nó về ngoại. Đã ba năm.

-Sao em không về ở với con?

-Cái nhà rất nhỏ và đông người. Không có chỗ để ở. Không có gì để ăn.

-Em ở đây một mình như thế này không sợ sao?

-Sợ gì chứ?

-Thú dữ.

-Thú dữ cũng rất cần em. Không có em chúng cũng buồn đấy. Những đêm trăng em đứng hát ngoài hành lang, nhìn xuống sân thấy cọp và gấu đứng nghe. Chúng đứng im lặng, lẩn trong cỏ may.

Ka Anh ngồi xuống bên bếp lửa. Cô khều mấy củ khoai ra, đưa cho Bù Khú. Cô trở nên lặng lẽ, như khoảng trời chợt ngừng gió.

-Hỏi thật anh nhé. Anh làm gì mà lâm vào tình cảnh thương tâm như vậy? Cô gái ấy là ai? Và anh là ai?

-Anh và cô gái là những người tù. Trốn từ trại cải tạo ra. Bị rượt đuổi.

-Anh làm gì mà bị tù?

-Người ta tìm thấy thuốc phiện trong nhà anh. Nhưng anh không buôn bán thuốc phiện. Em có tin anh không?

-Em không biết. Nhưng trông anh có vẻ như một thầy giáo. Tại sao trong nhà anh có chứa thuốc phiện?

-Lúc đầu anh sống một mình trong căn nhà lá bên bến sông. Rồi sau đó những người trôi dạt ngoài xã hội, những trẻ bụi đời, những cô gái bị chồng hành hạ như cô gái mà chúng ta vừa chôn khi chiều… đã đến tá túc. Và anh đã bảo bọc họ. Có lẽ thuốc phiện là do một trong những người đó đem về.

-Em hiểu rồi. Thôi, anh nằm xuống và ngủ đi.

Ka Anh cũng nằm xuống sàn gỗ. Bếp lửa cũng sắp tàn. Nó ánh lên gương mặt lồi lõm của người đàn ông mệt mỏi.

Nhưng Bù Khú không ngủ được.

Ngọn lửa đã tắt, bếp lửa chỉ còn những hòn than đỏ ửng sau lớp tro mỏng. Bù Khú ngồi dậy rất nhẹ. Ông tựa lưng vào bức vách làm bằng những thân cây xù xì, ông nhìn những trái bầu khô lủng lẳng cạnh những trái bắp giống. Tất cả như những vật đã hóa thạch trong cổ tích. Cô con gái của rừng đang ngủ mà không chờ một ai đến đánh thức. Cô ngủ đơn độc, lẻ loi như vậy đã nhiều năm. Ngủ cô quạnh trong xó núi như một sinh vật vô danh, như một số phận nhỏ nhoi giữa trời đất, giữa rừng già mênh mông bất tận.

Khi ông chưa đến đây, cái thế giới nhỏ bé này đã vậy. Rồi ông đến, như kẻ đi lạc, như để góp thêm vào cõi hiu quạnh một thân phận khác, cũng hiu hắt như cô gái Châu Mạ này, như những trái bầu khô, những trái bắp này, như bếp lửa này.

Cô gái, bếp lửa, cái nhà sàn và đám cỏ may trước sân kia là một thế giới, một câu chuyện cổ tích, có lẽ sẽ rất xót xa, rất ngậm ngùi…

18.CON GÁI

CỦA RỪNG

Mười bốn tuổi, nhà không có gì ăn, Ka Anh mang gùi, cầm cây xà-gạt đi vô rừng.

Cô sống năm năm đơn độc ở đó. Mười chín tuổi, đêm nọ, khi cô đang ngủ chợt cảm thấy có ai nằm cạnh mình, quay lại, bị hôn ngay miệng. Đó là một gã thợ rừng. Cô bỏ chạy ra suối rửa mặt, súc miệng.

Ít lâu sau gã người kinh ấy ngỏ lời cầu hôn, gia đình Ka Anh hỏi : “Cha mẹ đâu ?” Anh ta nói mình lớn lên trong trại mồ côi. Không biết quê quán. Không biết cha mẹ. Chị Ka Anh hứa: mày lấy Ka Anh tao cho mẫu chè. Nó chịu. Nhưng đêm tân hôn nó bỏ đi nhậu với tụi thợ rừng. Ka Anh nằm một mình buồn quá. Khóc. Nửa đêm ra ngoài tìm chồng. Đi ngang nhà thờ nghe tiếng thánh ca. Đó là lần đầu tiên Ka Anh không hát cho ca đoàn trong đêm Giáng Sinh mà lại lang thang trong đêm tối. Không một ai trên đường. Không một ai trong buôn làng còn thức.

Hai mươi tuổi Ka Anh có bầu. Người chồng bán mẫu chè và bỏ đi biệt tích. Ka Anh lại vô rừng ở lần thứ hai. Không tiền bạc. Không của cải. Nhưng rừng là nhà của cô. Vẫn còn những củ mài, măng tre, lá bép và suối.

Nhà của Ka Anh ở lưng chừng đồi. Nó mảnh khảnh và tơi tả. Sáng sớm cô gùi củ mài và măng ra buôn đổi thực phẩm. Hai mươi cây số đường rừng.

Ngày nọ trên đường về, cô gặp hai thằng con trai đứng chặn đường ngay cây cầu khỉ bắc qua suối.

“Đưa trái thơm thì cho qua.”

Trong gùi của Ka Anh có gạo. Và hai trái thơm. Cô lấy ra một trái, hỏi:

“Có phải trái này không?”

“Hai trái mới được.”

“Vậy tôi đếm đến hai nhé. “

Và đếm: “Một”.… Tiếng « hai » chưa kịp thốt ra thì gã con trai đã bị đá văng xuống suối. Gã còn lại ngoan ngoãn tìm cách kéo đồng bọn lên. Bỏ chạy.

*

Nhưng lại có một gã to con hơn. Râu quai nón, tóc dài. Gã không chặn đường. Không chọc ghẹo. Gã theo dõi. Lén lút. Giấu mặt. Ban đầu Ka Anh rất sợ. Lần thứ hai, lần thứ ba vẫn không ra mặt. Khi thì theo sau, khi đi song song lẩn trong cây rừng, khi ẩn hiện phía trước, có lúc từ trên ngọn cây cao nhìn xuống.

Nhiều tuần trôi qua như vậy. Ka Anh không còn cảm thấy bị đe dọa. Gã giống như người được thần rừng sai đi bảo vệ cho cô. Ngay cả trong đêm, cô không thấy hình dáng của gã nhưng những tiếng động gã gây ra cũng rất quen thuộc. Vì không sợ nữa nên cô lại hát. Có thể gã không phải là người. Vì làm sao lại có người bỏ công theo đuổi suốt ngày đêm như vậy?

Lại có khi Ka Anh rình gã. Thấy gã từ trên ngọn cây nhảy xuống, nhanh như một con vượn. Râu tóc rất dài. Nhưng mặt là mặt người. Một người đàn ông cao lớn và cũng có thể gọi là đẹp trai. Đến khi gã phát hiện mình bị theo dõi thì trốn biệt. Biến mất trong rừng dày. Suốt một tuần không hề thấy tăm hơi. Chỉ có một lần Ka Anh tắm suối. Cô để ngực trần. Chợt nghe tiếng động trong nhánh cây thấp. Cô ngừng hát. Nhưng vây quanh cô chỉ là những tầng tầng lớp lớp lá rừng dày đặc. Rừng cũng đang nín thở, nghe ngóng.

Cô nghĩ rằng gã đã bỏ đi nơi khác rồi. Và từ đó cô không bận tâm đến gã nữa.

*

Cái thai lớn dần, Ka Anh thấy thèm chua. Mà ổi thì mới ra hoa. Trong rừng không có quả gì. Cô đi lang thang bên suối tìm lá giang nhưng không có. Chỉ gặp một bụi lá bứa chua chua chát chát. Nhưng rất là ngon. Ăn một bụng, còn để dành cho ngày hôm sau.

Nhưng hôm sau đến, thì thấy một con bò rừng đang ăn khóm lá bứa của mình. Nó to quá. Không đuổi đi được. Đành phải chạy đến tranh ăn với nó.

Và hôm sau nữa thì không còn gì để ăn.

Cơn thèm chua lại đến. Cô vuốt ve cái bụng bầu của mình. Con ơi. Mẹ đói như thế này thì làm sao con no được?

*

Ngày kia có một chàng trai lạ bơi qua suối.

Chàng ta nhìn thấy một cô gái hai mươi tuổi, mang bầu và ở một mình trong rừng. Lễ vật của chàng là một nửa gùi sim chín. Chàng hái sim trên đồi cù.

“Cô ở đây có một mình sao?”

“Tôi thích ở một mình.”

“Chồng đâu ?”

“Không có chồng.”

“Sao có bầu ?”

Hôm sau chàng trai lại đem đến một nửa gùi bắp. Lần thứ ba là muối. Chàng trai rủ Ka Anh đi hái sim. Họ đi từ sáng và đến đồi cù vào giữa trưa. Sim dày đặc, trái chín đen cả một vạt rừng. Gió mát quá. Ka Anh len lỏi giữa những bụi sim cao ngang mặt. Hai người tung tăng như hai con nai nhỏ hồn nhiên.

Chợt nghe tiếng thở của con thú lớn. Một con cọp đang ngủ say. Chàng trai cầm cái xà-gạt thủ thế. Ka Anh lùi lại. Cô thấy con cọp cũng hiền lành khi nó ngủ. Chàng trai nói:

“Cô giữ cái đuôi đi. Tôi sẽ cho nó một nhát.”

Ka Anh thích trò chơi đó. Cô chụp lấy cái đuôi con cọp. Nó giật mình thức dậy. Gầm lên một tiếng. Nanh vuốt giương ra hết cỡ. Chàng trai ném cây xà-gạt bỏ chạy.

Ka Anh không còn sự chọn lựa nào ngoài việc giữ chặt cái đuôi khủng khiếp của con mãnh thú. Người và thú xoay vòng tròn. Cô gồng mình, mười ngón chân cày xới mặt đất tóe máu. Mặt đất cũng rách nát.

Quần áo Ka Anh thì tả tơi, tóc bê bết mồ hôi, sợi dây chuyền bằng hạt cườm đứt tung, vung vãi trong cỏ gai. Cô bắt đầu đuối sức nhưng không dám buông tay vì buông tay là chết. Trong giây phút tuyệt vọng ấy, một đám thợ rừng xuất hiện, la hét. Ka Anh buông cái đuôi ra, ngã quỵ trên vòng tròn nham nhở đất cát.

Cọp phóng vào rừng.

Cô lại trở về căn nhà sàn tả tơi của mình.

Một đêm trăng mờ, chàng trai hôm trước lại bơi qua suối. Lần này anh ta không đem theo quà. Lặng lẽ bước lên cầu thang, ngồi xuống bên bếp lửa. Ka Anh đang vá lại cái xà-rông rách nát do quần nhau với cọp hôm trước. Hai ngưòi đều không nói lời nào. Cuối cùng chàng trai lên tiếng:

“Anh có lỗi với em.”

Im lặng.

“Hãy cho anh ở lại đây đêm nay.”

“Về đi!”

“Hãy cho anh ở lại.”

“Tôi bảo anh về!”

“Nếu không về thì sao?”

Ka Anh ném cái xà-rông xuống sàn nhà, hỏi:

“Anh nghĩ gì về một cô gái dám sống một mình trong rừng?”

“Anh thương em.“

“Bây giờ anh có đi về không?!”

“Hãy cho anh ở lại.”

Ka Anh bước lại phía vách lá, đẩy cánh cửa sổ.

Không phải ánh trăng lùa vào. Không phải gió lùa vào. Mà một đàn dơi rừng như cơn bão đen từ địa ngục lùa vào.

Chàng trai biến mất trong chớp mắt. Chỉ còn là một khối đen có cánh, lúc nhúc và rối rít. Chàng trai mang cả bầy dơi trên lưng, nhảy xuống đất, phóng xuống suối.

Đàn dơi tung mình lên. Lấp lánh ngàn đôi cánh của bóng tối.

Ka Anh lại ngồi bên bếp lửa, tiếp tục vá cái xà-rông.

*

Cái thai vẫn tồn tại sau trận ác chiến với con cọp nhỏ. Đến ngày, Ka Anh về buôn ở với mẹ. Nửa đêm bụng đau thắt. Mẹ bảo cô ngồi xổm, hai tay nắm chặt thành giường. Đứa con ra đời, được cắt nhau bằng một sợi chỉ.

Ba tháng sau Ka Anh lại đưa con vào ở trong rừng. Ở được một tháng thì có cơn bão đến. Rừng núi chuyển động. Đồi chè chuyển động. Ngôi nhà sàn lắc lay như cái tổ chim. Mưa trút xuống giận dữ. Trời gầm thét. Và núi cũng  đáp lại bằng những tiếng rú.

Căn nhà sàn bay xuống đồi như một chiếc lá khô. Vừa bay vừa xoay vòng. Ka Anh gùi con sau lưng, ôm lấy cột nhà. Và bay đi như đang cưỡi lên một cánh diều. Cô nghĩ rằng hai mẹ con sẽ bị ném xuống hẻm núi và sẽ chết. Cuối cùng cô quyết định mở cánh cửa. Ôm con trước ngực. Và lao ra ngoài.

Hai mẹ con lăn lóc trên sườn đồi. Tấp vào những bụi chè. Và sống sót.

Sau cơn bão, những người hái chè quanh đấy xúm lại dựng tạm cho cô một túp lều. Lều cất xong, các chàng trai trong buôn săn được một con đỏ, làm tiệc. Ka Anh đi hái mồng tơi được một rổ đầy, đem rửa bên bờ suối. Bọn thanh niên xúm lại vừa nhặt rau vừa chơi trò bóp trái mồng tơi quẹt lên mặt, đùa giỡn náo động cả một góc rừng.

Bỗng nhiên nghe tiếng khóc. Già Làng hỏi:

“Đứa nào khóc?”

Ông chạy ngược lên đầu suối, thấy hoa mồng tơi trôi đầy trên mặt nước. Trên hòn đá chỉ còn mình Ka Anh ngồi khóc, xòe hai bàn tay che lấy ngực. Già Làng hỏi:

“Ai làm gì?”

“K’ Đùng bôi mồng tơi lên ngực con.”

Già Làng chỉ cười, lội xuống suối vớt cái rổ rau lên.

“Nín đi.“

Nhưng Ka Anh tức quá không nín được.

Buổi tối khi mọi người đã về hết, còn lại một mình với rừng đêm, cô thấy mình sống lại, thanh thản, tự do giữa trời và đất, giữa mây và núi. Đứa con đã ngủ yên bên bếp lửa. Ka Anh đi chân đất, bước xuống các bậc thang. Bàn chân dẫm trên những lá cỏ ướt. Mặt đất phẳng lặng.

Ban sáng bông cỏ may có màu tím đỏ, xế chiều nó cháy rực lên như lửa. Còn bây giờ dưới ánh trăng mờ đục, bông cỏ may tỏa ra một vùng sáng bạc hư ảo, chập chờn, lãng đãng như sương khói. Đó là thế giới của cô. Lặng thinh, tĩnh mịch, thầm kín.

  1. FULRO

Bù Khú chở Ka Anh trên xe máy đi về phía ngôi mộ của Đào. Họ đắp thêm đất lên đó và trồng rất nhiều hoa Mười Giờ phủ kín nấm mộ. Cỏ trên đồi xanh rờn như một thảm nhung phẳng. Ka Anh đi ra xa tìm mấy củ cỏ gấu cất trong cái túi thổ cẩm nhỏ đeo bên hông, còn Bù Khú thì nằm bên nấm mộ và hút thuốc rê. Ông nghe tiếng những con chim chào mào hót đâu đó trong tàn cây và thấy tâm hồn mình như muốn tan theo cơn gió. Những cơn gió rất mỏng, chảy qua tâm thức ông làm cho nó mụ mị, mơ hồ, bất định.

Ka Anh trở lại với rất nhiều cỏ gấu. Cô níu Bù Khú ngồi dậy. Họ lại vượt qua một con dốc cao mới tới được ngôi làng nhỏ của người Mạ.

Trên đỉnh dốc là một vùng đất bằng phẳng vàng cháy và trơ trụi. Bù Khú không thể tưởng tượng được rằng giữa vùng rừng núi bạt ngàn này lại có một ngôi làng cằn khô như thế. Như ốc đảo trong sa mạc. Như một thị trấn hoang sơ của miền viễn tây Hoa Kỳ cách đây 200 năm.

Hai bên con đường đất bụi mù là những ngôi nhà gỗ lụp xụp ủ rũ dưới nắng cháy. Những ngõ cụt màu nâu đỏ mất hút sau các vách ván so le, vỡ nát, thủng lỗ. Không một bóng người. Không tiếng chim. Không tiếng heo gà. Ngôi làng lạnh lẽo dưới nắng chói.

Rồi đột nhiên hàng chục đứa trẻ từ trong các ngõ ngách hiện ra. Đứng như trời trồng. Không nói. Không cười. Không cử động. Chỉ thấy những cái bụng ỏng và những cặp mắt đầy ghèn.

Mình đang lạc vào thế giới nào vậy?

Những đứa trẻ như vừa mọc ra từ đất. Chúng như những bụi xương rồng lùn tịt, khẳng khiu trên cát nóng. Chúng đang thủ thế với mình hay đang chào đón?

Dường như sắp xảy ra một cuộc đấu súng.

Những chàng cao bồi nhỏ thì áo quần rách rưới, ruồi đậu quanh mép, còn Bù Khú thì toát mồ hôi. Không ai có súng cả. Dường như đó là một sự căng thẳng giả tạo. Cũng có thể đó chỉ là một sự ngạc nhiên kéo dài.

Ka Anh nói một câu gì đó bằng tiếng dân tộc.

Ngay tức khắc đám trẻ con chạy ùa đến vây lấy Bù Khú. Tiên sinh ngồi thụp xuống, mở cái bao vải ra. Ông nghèo quá, nên quà không có gì ngoài những bao xì-nách.

Mấy con gà mái không biết từ đâu cũng chạy đến cùng với năm ba con chó vàng và heo mọi ốm nhách.

Dưới gầm ngôi nhà sàn thường là để nhốt trâu bò nhưng dường như đã lâu lắm người ta không dùng đến cái khoảng trống đó. Mặt đất trong chuồng nham nhở. Không có cỏ, cũng không có rơm khô. Cả phân bò cũng không có. Sự sống đang tàn lụi, đang co rúm lại, quắt queo như một trái cây chưa kịp chín đã khô héo.

Ngôi nhà sàn này khá dài và có một cầu thang đi lên. Tỏa ra hai bên là những khoảng trống u ám của những vách lá mục nát đen nhẻm bị hun khói hàng chục năm bởi những bếp lửa phân chia từng gia đình một.

Bếp lửa cũng đã tắt ngóm. Đặt bàn tay lên tro than thấy lạnh tanh. Những que củi cháy dở nằm ngổn ngang như xác chết nám đen trên chiến địa.

Nhìn lên mái thấy hàng trăm cái lỗ thủng. Thấy có đám mây dửng dưng bay ngang qua. Thấy gió phe phẩy những lá mục. Vách ngăn giữa các gia đình làm bằng bao bố kết lại. Cũng đã tả tơi.

Nhưng đây không phải là cái nhà sàn bỏ hoang. Vẫn có mấy bộ quần áo treo trên vách. Mấy cái bầu khô. Xà-gạt và gùi. Những cư dân này đang ở trong rừng. Họ không có chè để hái, không có cà phê để hái, không có bắp để hái. Họ hái củi. Bó từng bó lớn, mang trên vai, gùi trên lưng. Đi bộ mấy chục cây số. Hai bàn chân bè ra. Nứt nẻ. Chai cứng. Băng rừng ra đến chợ. Kiếm được hạt gạo sao mà khốn cùng vậy!

*

Bù Khú lại chở Ka Anh xuống cái dốc sâu để trở về thung lũng cỏ may của mình. Chiếc xe máy cũ kỹ giấu trong bụi rậm được lôi ra, và Bù Khú lại bắt đầu cuộc vật lộn với cỗ máy han rỉ, ồn ào đó.

Con đường đất đỏ tung bụi mù giữa trưa nắng, gầm gừ chống trả con ngựa già rổn rảng bằng những cú xóc ương ngạnh, phũ phàng. Cuối cùng Bù Khú tìm thấy một lối mòn lẩn khuất giữa đám bắp và rẽ vào đó. Họ đi một lúc đã nghe thấy tiếng suối chảy. Bù Khú cho xe ra khỏi đám bắp, vòng qua một vườn chè và dừng lại ngôi nhà tôn lụp xụp của người thợ rừng.

Họ trả chiếc xe máy. Lúc trở ra, họ nghe phía dưới thung lũng có tiếng con nít la lối. Hình như đoàn văn công ở tỉnh về.

Hai người đến gần, mới biết là có bốn người Fulro bị bắt, đem từ trong rừng về. Một đàn ông bị xích chân vào gốc mít, một đàn bà và hai đứa con nít. Bọn họ và mấy người dân quân xã ngồi nghỉ mệt dưới bóng cây.

Người đàn ông rất cao lớn, ngồi cúi mặt, bà vợ ông ta thì ốm yếu và thất thần. Chỉ có hai đứa con nít thì lanh chanh như hai con khỉ nhỏ. Chúng đứng nhăn răng cười, chỉ tay vô bụng. Có người đưa cho chúng mấy viên kẹo, chúng đưa lên mũi ngửi, xé viên kẹo ra nếm rồi nhăn mặt vứt đi. Người nọ lại đưa một ổ bánh mì. Một đứa chụp lấy, nhảy tót lên cành cây, đu mấy cái đã ở tít trên ngọn mít. Đứa còn lại phóng theo, chuyền cành nhanh như vượn, tiếng kêu “khẹt khẹt” phát ra từ cổ họng chúng. Hai đứa đuổi nhau trên ngọn cây, giành ổ bánh mì. Cuối cùng đứa nhỏ thua. Nó ngồi trên cành cây, nhìn đứa lớn gặm ổ bánh, rồi chợt nó bẻ một cành mít nhỏ đưa lên miệng, gặm lớp vỏ cây, ăn ngấu nghiến.

Ka Anh rẽ đám đông, thò đầu vô xem. Tức thì chạm phải một khuôn mặt râu tóc dài như người rừng. Và một đôi mắt buồn, khắc khoải. Đó là đôi mắt đã từng theo dõi cô trong rừng, phía sau, phía trước, trên ngọn cây…bất kể ngày đêm, bất kể mưa nắng. Đôi mắt ấy đang nhìn cô trân trối. Một đôi mắt đẹp. Một cái nhìn tuyệt vọng.

Cô thảng thốt bỏ đi. Bù Khú hỏi:

-Sao mặt em tái mét vậy?

Ka Anh đứng tựa vào gốc mít. Im lặng một lúc, rồi hỏi:

-Fulro là gì?

-Đó là “Mặt Trận thống nhất đấu tranh của các sắc tộc bị áp bức” do người Pháp thành lập trước đây. Đã lâu lắm.

-Nhưng nó là tiếng gì vậy? Không phải tiếng của người Mạ.

-Nó viết tắt từ tiếng Pháp: Front Uni de Lutte des Races Opprimées. Nhưng em hỏi để làm gì? Sao em có vẻ xúc động quá vậy?

-Vì em quen với người đàn ông đó. Ông ta là kẻ đã từng âm thầm theo bảo vệ em trong rừng.

-Anh nhớ ra rồi.

-Bù Khú à! Em không biết cái Mặt Trận ấy tốt hay xấu nhưng em tội nghiệp cho anh ta quá, anh có cách gì cứu họ không?

-Không. Đó là chuyện chính trị, rất phức tạp.

Ka Anh thở dài. Bù Khú đưa cô ra khỏi đám đông. Đi được một đoạn thì Bù Khú dừng lại.

-Ka Anh này, hay là em hỏi xem anh ta có cần thuốc Tây không?

-Em cũng có ý định đó.

Hai người quay lại chỗ cũ, đến sát gốc mít. Người Fulro nọ tuy bị xích chân nhưng hai tay vẫn tự do. Anh ta có vẻ ngạc nhiên khi thấy Ka Anh quay lại. Ka Anh hỏi bằng tiếng dân tộc:

-Chào anh, anh có cần gì không?

-Cô có thể giúp tôi được gì?

-Thuốc Tây chẳng hạn. Hay là thức ăn?

Anh ta nhìn sang Bù Khú. Ông đón nhận cái nhìn ấy một cách chân tình. Bù Khú nhờ Ka Anh thông dịch, ông nói:

-Cái xích sắt làm chân anh chảy máu. Anh cần băng bó và cần thuốc kháng sinh.

Ka Anh không biết dịch từ “thuốc kháng sinh” vì cô không hiểu nghĩa tiếng Việt của nó. Bù Khú cũng chẳng biết làm sao để diễn tả, ông buộc miệng nói:

-Antibiotique?

-Oui, j’en ai besoin.

-Excellent! Vous parlez Français?

-Bien sûr.

-Avez-vous besoin de nourriture? Je peux vous chercher de quoi manger.

-S’il vous plaît.

-J’ai entendu dire que vous êtes un partisan de Fulro. N’est-ce pas?

-Pas moi, mais mon père.

-Alors, pourquoi on vous a arrêté?

-On a trouvé quelques vieux fusils dans la forêt au près de ma caverne. Je crois que ce sont les fusils de mon père.

 

(-Thuốc kháng sinh?Vâng, tôi đang cần nó.Tuyệt quá! Anh biết nói tiếng Pháp? -Tất nhiên -Anh cần thực phẩm không? Tôi có thể tìm một cái gì đó cho anh ăn.Làm ơn -Tôi nghe nói anh là thành viên của Fulro phải không? -Không phải tôi, mà là cha tôi. -Vậy tại sao người ta bắt anh? -Người ta đã tìm thấy mấy cây súng cũ trong rừng, cạnh cái hang tôi đang ở. Tôi nghĩ rằng đó là súng của cha tôi.)

 

Người lính gác vừa phát hiện cuộc nói chuyện bất thường giữa hai người đàn ông, anh ta xách súng bước lại, hỏi:

-Nói gì đó?

Bù Khú:

-Anh ta kêu đau chân. Anh có thể băng bó vết thương cho anh ta được không? Và đừng xích chân nữa. Tôi nghĩ nên thay bằng một cái còng tay. Còng số 8.

-Đó không phải chuyện của các người. Đi đi! Đi chỗ khác!

Anh ta dùng báng súng đẩy lưng Bù Khú và Ka Anh ra khỏi đám đông. Ka Anh lấy tờ bạc năm chục ngàn vò thành một cục rồi ném dưới chân người Fulro trước khi bỏ đi.

Khi ra khỏi đám đông Ka Anh hỏi:

-Anh nói chuyện gì với anh ta vậy?

Bù Khú thuật lại nội dung câu chuyện.

Ka Anh nói:

-Em tiếc là đã không giúp được gì cho anh ấy.

-Đành vậy. Mình không làm được gì trước họng súng đâu.

Hai người băng qua đám mì để đến dòng suối, chỗ có cây cầu gỗ.

  1. VỀ ĐẤT

Bù Khú không có đồng hồ nên không biết mấy giờ, nhưng trời có vẻ đã khuya lắm. Ka Anh đang ngủ say. Than hồng trong bếp tuy được phủ một lớp tro mỏng nhưng vẫn ửng lên những đóm sáng. Ông ngồi tựa lưng vô khung cửa, nhìn xuống bãi cỏ trước nhà. Ánh trăng non rải một vùng sáng bạc mơ hồ tận những lùm cây đen. Trong vùng sáng hư ảo ấy ông nhìn thấy đốm mắt của những con thú nhỏ đi ăn đêm.

Ông uống hết chai rượu và lấy chai khác. Trong cơn say, ông thấy mình nhẹ tênh, thân xác như hư vô, như gió bụi. Tâm hồn ông rỗng không, đang tan biến, đang hòa nhập vào bóng tối.

Trong cái im lặng của đêm, ông nghe như có tiếng gọi mơ hồ của một người con gái, tiếng gọi ấy phát ra từ hướng ngọn đồi cỏ, nơi Đào đang yên nghỉ. Trước đây thỉnh thoảng trong những mùa trăng ông vẫn nghe tiếng gọi ấy, nhưng chưa bao giờ nó được truyền dẫn một cách bí nhiệm như lúc này.

Bù Khú cầm chai rượu bước ra ngoài, xuống cầu thang, đi lẩn vào đám cỏ may như một kẻ mộng du.

Ông đi mải miết trong bóng đêm, qua những đồi chè, những nương rẫy…

Chợt ông nghe tiếng súng nổ và tiếng những bước chân. Bù Khú ngồi thụp xuống, chui vào một hốc đá. Bất ngờ một đàn dơi từ đó túa ra như cơn lốc xoáy, kèm theo một rừng tiếng động hỗn loạn. Bù Khú ngã chúi xuống đất, chạm phải cái lưng của một người đang nằm sấp.

Bên ngoài hốc đá là một đám người nhốn nháo, hỗn loạn, đang xô đẩy nhau vì bị đàn dơi tấn công bất ngờ. Bọn họ cũng nằm rạp xuống, cong người lại, hai tay ôm đầu.

Bên trong, Bù Khú lăn ra khỏi cái xác. Ông dùng ngón tay đè lên động mạch cổ, thấy nó còn đập yếu ớt. Ông lật ngửa người ấy ra, sờ lên khuôn mặt đầy râu của gã, thấy còn chút hơi ấm.

Chòm râu quai nón của gã làm ông nhớ đến một người ông đã từng gặp. Ông hỏi:

-Fulro?

-Oui, c’est moi. Je viens d’ échapper de la prison mais ils m’ont poursuivi jusqu’ici. Je suis blessé par un coup de fusil.

-Où est votre blessure?

-À l’ épaule gauche. J’ai besoin de bandage hémostatique.

(-Fulro phải không?Vâng, tôi đây. Tôi vừa vượt ngục nhưng bị bọn họ đuổi theo đến đây. Họ bắn tôi bị thươngAnh bị thương ở đâu? -Ở vai trái, tôi cần cầm máu)

Bù Khú cởi áo ra cột vết thương cho anh ta nhưng máu vẫn chảy. Cổ họng anh ta khò khè, dường như muốn nói gì đó nhưng không thành tiếng. Bù Khú nói:

-Il faut sortir d’ici pour les premiers soins.

(-Phải rời khỏi đây để sơ cứu)

Ông ngồi dậy, vạch lá nhìn ra bên ngoài. Dưới ánh trăng mờ đục chỉ còn những đám sương mù. Đàn dơi đã biến mất. Những người lính cũng biến mất.

Bù Khú dìu người đàn ông bước ra khỏi hốc đá và ngạc nhiên thấy mình đang ở rất gần ngọn đồi nơi có nấm mồ của Đào.

Người đàn ông bước không nổi, thở hắt ra từng hồi, máu chảy ra hai lỗ mũi. Bù Khú bước loạng choạng lên dốc.

Cạnh nấm mồ của Đào có một cái cây lớn, Bù Khú định sẽ đến đó, đặt anh ta nằm xuống rồi đi mượn chiếc xe máy chở anh ta về nhà. Nhưng khi ông vừa đến chỗ gốc cây thì súng nổ.

Những loạt súng khô và lạnh được bắn ra từ những lùm cây.

Bù Khú quỵ xuống. Người Fulro thì ngã ngửa  trên cỏ, bất động. Bù Khú không biết mình bị thương ở đâu. Cơn đau cũng rất mơ hồ. Nhưng ông cảm thấy mình đang rơi vào một cơn mê sảng. Ông nghĩ rằng sẽ có nhiều tiếng chân người chạy đến nhưng chung quanh rất im lặng.

Dường như bình minh đang đến mặc dù sương mù vẫn còn. Bù Khú đang trôi vào một cõi nào đó, mơ hồ và đầy những ảo ảnh. Ông lạc vào một vùng đất xa lạ, một chốn nào đó rất tinh khiết, rất tĩnh lặng, không có âm thanh, không có mặt trời, không có cả loài người và muông thú. Đó là vùng đất của hoài niệm, của mong manh, lung linh…

Nấm đất bên cạnh ông cũng lung linh, được kết bằng một thứ cỏ dại, như mây, như khói. Mây giăng như áo lụa vẫy cánh trên khoảng trời rộng. Rừng như tạc vào sương mù, bồng bềnh những bóng lá sẫm màu.

Ông đặt tay lên nấm mộ và cảm thấy sự mềm mại của vùng bụng phẳng của cô gái trẻ. Lỗ rún sâu, như cái lúm đồng tiền hồn nhiên, thanh bình trong đêm trăng nơi chiếc võng treo trong khu vườn nhỏ. Đó là Đào. Vùng bụng phẳng như một bình nguyên hạnh phúc. Ngày ấy, ông vẫn thường áp mặt mình lên vùng bụng đó và đặt môi mình lên cái rún đó. Ông đã thấy mình trẻ lại. Và qua lỗ rún, người con gái đã truyền sức trẻ của mình vào trái tim đã mệt mỏi của ông. Ông đã sống mạnh mẽ qua những thử thách đau khổ, cay đắng của trần gian.

Ông đã từng đến đây, ngày và đêm, nhưng chưa lần nào ông lạc vào một cảnh giới mộng mị như hôm nay.

Đào ơi, chúng ta từ cõi nào đã hiện ra trên thế gian này, đã gặp nhau và yêu nhau như những đứa trẻ. Khi yêu con, chú đã vứt cái tuổi già của chú vào bãi rác, vứt xuống sông cho thủy triều đem ra biển. Chú đã thoát ra khỏi dây trói của thời gian và con đã đứng trong vầng sáng trẻ trung, níu lấy cánh tay của chú, lôi chú ra khỏi sự ngu ngốc của tuổi tác, sự bần tiện của lão hóa, đạp trên quy luật của trời chỉ để đến được khu vườn nghèo nàn nơi cái am nhỏ bên sông, chỉ để đến được buổi sáng lạnh lẽo hôm nay.

Ước gì chú có thể được gặp con lần nữa.

Đào ơi!

*

Khi mặt trời đã lên cao thì Ka Anh đến. Hoa Mười Giờ đang nở đỏ rực trên nấm mồ của Đào. Cô nhìn thấy giọt nước mắt của gã si tình già. Bù Khú nằm nhắm mắt, hai bàn tay gầy đặt trên những ngọn cỏ.

Ka Anh gọi:

-Bố già! Bố già dễ thương của em.

Nhưng Bù Khú đã bất động. Cô ngồi xuống nhìn sát mặt ông, thấy nó như tượng gỗ. Nó lạnh ngắt. Cô áp tai lên ngực ông. Nó đông cứng. Và máu đã khô đặc lại.

Rồi cô phát hiện đàng kia có một người đang nằm co quắp. Đó là một hình bóng quen thuộc nhưng giờ đã biến thành một gốc cây, một hòn đá.

Ka Anh ôm Bù Khú vào lòng như một người mẹ. Cô áp mặt mình vào mái tóc lốm đốm bạc của ông và ru ông bằng những giọt nước mắt im lặng.

ĐÀO HIẾU

(Tháng 12 năm 2011)

 

 BẠT

 SỰ IM LẶNG

của Bù Khú Tiên Sinh

Nguyệt Hạ

“Im lặng” gần giống với khái niệm “phẳng”. Mặt nước không dao động, biển trầm lặng. Và sợi dây đàn đã im tiếng. Khi sự bằng phẳng bị lệch, bị khuấy động, thì gọi là “bất đắc kỳ bình”. Từ đó Hàn Dũ có câu nói nổi tiếng: “vật bất đắc kỳ bình tắc minh” (phàm vật gì bị mất thế cân bằng thì phát ra tiếng kêu). Giống như có ngón tay khua động sợi dây đàn. Nó rung lên và phát ra cung bậc. Giống như gió nổi trên mặt biển tĩnh lặng làm cho nó dậy sóng, gầm thét.

Nhưng cũng có những vật “bất đắc kỳ bình” mà vẫn im lặng. Ví dụ như cái xã hội mà chúng ta đang sống. Có bao nhiêu chuyện bất đắc kỳ bình mà thiên hạ cứ dửng dưng, cứ im lặng. Đó là sự im lặng của cặp vợ chồng đã sống chung với nhau mấy mươi năm, đã chán chê ê ẩm, đã mệt mỏi, không còn muốn kêu than gì nữa, mất hết hy vọng. Họ chọn sự im lặng.

Sợi dây đàn đã rung lên quá nhiều lần. Và nó đã chùng xuống, không phát ra âm thanh được nữa. Không “minh” được nữa. Cũng giống như Hàn Dũ, từng giữ chức Thị Lang hình bộ bỗng nhiên bị ghép tội tử hình, may mà được tha chết. Đó là trận “bất đắc kỳ bình” khủng khiếp của ông, và tâm hồn ông đã chùng xuống, im lặng ẩn thân nơi sơn lâm cùng cốc.

Bù Khú Tiên Sinh cũng đã từng bất đắc kỳ bình. Ông không những đã “kêu lên” mà còn “quậy tưng bừng” trong thời trai trẻ. Xuống đường, ở tù, vào rừng kháng chiến… nhưng rồi cuộc hôn phối giữa ông và “cách mạng” cũng đã chán chường. Cuộc tình ấy kết thúc bằng im lặng. Sợi dây đàn chùng xuống, cong queo như một cọng chỉ bị bỏ quên trên mặt đất lạnh lẽo. Bù Khú nhặt nó lên, xâu vào lỗ kim, vá lại tấm áo sờn rách của mình.

*

Thời sinh viên, chàng thường bị ám ảnh bởi cái chết. Chàng thức trắng đêm nhìn mặt trăng tàn héo, chàng lang thang trong nghĩa trang cùng những mộ bia, chàng uống rượu say và ngủ quên trên bờ biển…

“Ngọc hỏi:

-Sao lúc ấy anh còn trẻ mà anh lại quan tâm đến những chuyện ảm đạm như vậy?

-Anh muốn tìm hiểu xem ý nghĩa của cuộc sống là gì.

-Rốt cuộc thì nó là gì?

-Càng ngày anh càng thấy nó chẳng là gì cả. Cuộc sống là một cái gì rất nhảm nhí, nhưng hồi trẻ anh muốn tìm ý nghĩa trong sự nhảm nhí ấy.” (chương 2)

Khi vào rừng theo kháng chiến chàng đã kinh ngạc trước những giả dối, nhỏ nhen, bần tiện của những con người được gọi là “cách mạng”. Chàng đã vừa khóc vừa đi nhặt từng mảnh xương thịt của người bạn thân sau một trận pháo kinh hoàng.

“Cả một vạt rừng tan nát, tơi tả, gãy vụn. Những trái pháo 175 ly tạo ra những cái hố sâu, đất đá trộn lẫn với cành cây.

Và…một mảnh áo đầy máu. Đi thêm mấy bước nữa, một cái chân đỏ lòm còn mang chiếc dép râu. Lủng lẳng trên cành cây gần đó là một cánh tay cháy sém. Và…một nhúm tóc.

Năm Ngọ ơi! Em mới hai mươi bốn tuổi, không cha không mẹ, không người yêu. Em là nhà trí thức trẻ. Em đi tìm cái gì trên rừng này vậy? Em bỏ thành phố, bỏ tương lại để lên cái vùng đồng chua nước mặn này trồng lúa sao?

Bù Khú ngồi khóc trên nhánh cây gãy. Hoàn toàn cô độc. Hoàn toàn lạc loài trong cái xó rừng hẩm hiu này, một mình một cõi, không ai hay biết, không chia sẻ cùng ai.” (chương 3)

Rồi giữa đêm, một người một súng, chàng đã băng rừng đi tìm “thủ trưởng” đang trú ngụ ở một khu căn cứ an toàn nhất.

“Bù Khú đạp mạnh cánh cửa liếp. Khẩu AK 47 vác trên vai. Thủ Trưởng nhìn khẩu súng, hỏi:

-Đồng chí làm gì vậy?

Khẩu AK đổi tư thế, kẹp trong nách.

-Cậu điên hả? Biết đây là đâu không?

-Sao không? Tôi băng rừng một mình đến đây chẳng lẽ chỉ để nhìn thấy cái đĩa mì xào nổi tiếng của ông sao? Ông có biết là Năm Ngọ đã tan xác rồi không?

-Trong chiến tranh, chuyện đó cũng bình thường.

Bù Khú sấn tới, đá văng đĩa mì xuống đất:

-Bình thường hả? Đối với những thằng “cách mạng kiểng” như ông thì bình thường, nhưng với những người lính như chúng tôi thì đó là máu. Mặt đất đầy máu. Lá cây cũng đầy máu. Những mảnh áo và những đoạn tay chân cũng đầy máu”   (chương 3)

Bù Khú mang nỗi thất vọng của một chàng hiệp sĩ nửa mùa theo đoàn quân giải phóng trở về thành phố. Kết thúc ba mươi năm chiến tranh. Kết thúc sự nô lệ, họ trở về trong vinh quang. Nhưng Bù Khú không hòa nhập được vào dòng người ấy. Chàng vẫn là kẻ đứng bên lề. Giữa lúc mọi người tranh giành nhà cửa thì chàng treo chiếc võng nylon nằm ngủ trong xó nhà.

Sau đó chàng được cấp một căn phòng tại một chung cư bỏ hoang. Chàng ở đó mười năm và cuối cùng:

“Khu chung cư của anh bị đập phá để xây khách sạn năm sao. Mọi người ai cũng được bồi thường hoặc đổi cho một căn hộ mới nhưng anh thì không có gì.

-Tại sao?

-Vì anh không có giấy tờ nhà, không có chứng minh nhân dân. Nói chung là anh ở lậu. Ở lậu tại khu chung cư ấy và ở lậu ngay trên đất nước Việt Nam. Không có gì chứng minh anh là một công dân, một người Việt Nam.

-Thế cái huân chương kháng chiến chống Mỹ của anh đâu?

-Chuột gặm. Mà nó cũng không có ảnh. Người ta có thể hiểu đó là tờ giấy anh lượm mót được ở đâu đó, ai đánh rơi.” (chương 10)

Cuối cùng Bù Khú tìm đến một bến sông, cất cái am nhỏ, ở với một con chó. Từ đó bắt đầu một cuộc sống mới. Lúc ấy chàng đã là một ông gìa ngoài năm mươi.

Ngài đã vứt bỏ quá khứ xuống dòng sông, ném mọi thứ học thuyết, triết lý, tôn giáo… ném cả thị phi vinh nhục vào bãi rác của ký ức. Ngài trở về với bản thế tự nhiên của cơn gió khuya, của đợt nước triều lên lúc sáng sớm, của những chồi non cựa mình trong kẽ lá của rừng dừa nước cuối hiên nhà. Ngài hòa nhập với giun dế, với tiếng gáy buồn của con cu cườm, với tiếng reo vui của con chào mào lí lắc. Ngài ngủ trong tiếng sóng vỗ của con nước lên và thức dậy với những ngọn gió.

Ngài quay mặt với xã hội xô bồ chung quanh, với phố xá và những tiện nghi vật chất. Ngài sống với thằng bé móc túi, với những con nghiện ma túy và gái mại dâm. Ngài trở thành tri kỷ của họ, sẻ chia cùng họ những vui buồn, tìm thấy tình người, tình yêu, đau khổ, khốn khó và hạnh phúc bên họ.

Dòng sông đã giúp ngài kỳ cọ và gột rửa quá khứ. Ngài sống với hiện tại, với những mảnh đời hiu hắt, bị xua đuổi, bị chà đạp và khinh miệt. Ngài đã hòa nhập, đã ăn nhậu, khóc cười với sự khinh miệt ấy. Ngài đi chân đất, ở trần và ngủ trong đống giẻ rách cùng với dân đen, những người thân của cô gái điếm là vợ ngài.

“Họ nói những câu chuyện giống nhau, họ lập lại những điều đã nói, họ la hét, cười khóc và hỉ mũi. Họ không biết gì đến những cuộc sống khác, những thế giới khác, những loài người khác. Họ không quan tâm đến nhà cửa, những tiện nghi vật chất. Những mái lá cứ xơ xác, xiêu đổ. Gió xô sập rồi lại mọc lên, đơn giản như cái ổ gà.” (chương 11)

Trong khi đó những quan chức Mafia, những chủ chứa mại dâm, vừa buôn bán ma túy vừa có quyền truy bắt tội phạm như nhân vật “thủ trưởng” trong câu chuyện này thì đang sinh sôi nảy nở đầy dẫy trong xã hội, chúng rao giảng những giá trị đạo đức của chúng.

Bù Khú Tiên Sinh đứng ngoài những đạo đức ấy. Ngài có những quy tắc đạo đức riêng để yêu, để sống và để chết.

NGUYỆT HẠ

LẠC ĐƯỜNG – tự truyện

OLYMPUS DIGITAL CAMERA

OLYMPUS DIGITAL CAMERA

TỰA

Mùa Thu năm 2007 tôi gặp nhà văn Nguyễn Mộng Giác tại Hoa Kỳ. Tôi khoe với anh là mình đang viết hồi ký. Anh nói: viết hồi ký cũng giống như quay phim đám cưới. Phim quay xong, người trong cuộc ngồi xem rất thích thú nhưng người ngoài chỉ liếc mắt ngó qua rồi đi, vì đám cưới ấy chẳng dính dáng gì tới họ.

Anh nói nghe rất có lý.

Hơn nữa tôi không phải là một nhân vật quan trọng nào đó mà chỉ là một anh Việt cộng nằm vùng không mấy người biết đến.

Nhưng tôi tin rằng hồi ký của gã vi-xi vô danh ấy sẽ thu hút người đọc và biết đâu sẽ gây tiếng vang lớn.

Tôi bắt đầu viết hồi ký này giữa năm 2006, viết được hơn một nửa thì tôi sang Mỹ và hoàn tất nó vào mùa Thu năm 2007 tại thành phố Lake Forest và quyết định gọi tên nó là “tự truyện Lạc Đường”.

Đầu năm 2008 tôi về Việt Nam, đưa bản thảo cho vài người bạn. Và nó đã được đón nhận rất ồn ào. Từ vài ba người bạn thân, nó lan truyền trong giới nhà văn nhà báo và họa sĩ. Đáng ngạc nhiên nhất là giới luật sư đọc rất nhiều.

Biết rằng tự truyện này không thể xin giấy phép in công khai được, tôi bèn gởi nó cho trang web Talawas. Mười ngày sau tôi nhận được thư của chị tổng biên tập Phạm Thị Hoài. Chị nói: “Tôi sẽ đích thân biên tập tác phẩm này.” Rồi tự truyện Lạc Đường xuất hiện trên Talawas. Hai mươi bốn giờ sau, chị Hoài lại viết cho tôi: “đã có 15.333 lượt người đọc”.

Mấy hôm sau, buổi tối, khi tôi đang nằm coi TV thì nhận được cú điện thoại từ đài BBC. Lê Hải gọi tôi. Anh nói: “Tôi đã đọc xong tự truyện Lạc Đường của anh và rất khâm phục. Xin chia vui cùng anh. Anh có thể cho đài BBC một cuộc phỏng vấn không?”

Đó là cuộc phỏng vấn dài 20 phút phát sóng sau đó mấy ngày và được phát lại lần thứ hai cách nửa tháng.

Tôi rất cám ơn Talawas và đài BBC vì nhờ các phương tiện truyền thông này mà tự truyện Lạc Đường đã được hàng vạn người biết đến. Dạo ấy mỗi ngày tôi nhận được rất nhiều thư độc giả từ khắp Việt Nam và khắp nơi trên thế giới gởi về qua địa chỉ E.mail của tôi. Tôi biết mình đã thành công ngoài dự kiến và điều mà anh Nguyễn Mộng Giác lo ngại đã không xảy ra.

Ở lần tái bản này tôi đã sửa chữa và bổ sung một số thiếu sót. Những chuyện được kể trong tác phẩm này là sự thật mặc dù đôi khi, do không kiềm chế nổi sự ngông cuồng của mình, tôi đã thể hiện nó như một tiểu thuyết.

ĐÀO HIẾU Tiếp tục đọc

MẠT LỘ – truyện dài

mat-lo1.

TỬ CẤM THÀNH

Đó là lần đầu tiên tôi rời thành phố vào chiến khu. Trước năm 1975 ở  Nam Việt Nam chuyện ấy chẳng có gì lạ, vì hàng ngàn phụ nữ trẻ như tôi cũng từng làm như vậy. Họ đã chiến đấu, đã bị thương, đã chết, đã bị bắt làm tù binh hay đã chiến thắng trở về trong chiến dịch Hồ Chí Minh như trường hợp của tôi.

Vì thế câu chuyện của tôi sẽ không có gì đáng nói nếu lúc ở chiến khu tôi không gặp ông già ấy. Ông không phải là một người bình thường. Ông là một nhân vật đầy quyền lực của “R”.

“R”, một cái tên huyền thoại, một thánh địa cách mạng, vừa là nỗi ám ảnh vừa là món nợ của nước Mỹ. Nhưng “R” là gì? Có thể nó được viết tắt từ chữ “Rừng”. Nhưng khu rừng mà tôi đến cũng không có gì ghế gớm, không có gì bí ẩn. Nó chỉ là một vùng cây cối rậm rạp, bằng phẳng, hoang sơ và thầm lặng.

Nhưng ở đó có một căn nhà đặc biệt.

Đó là căn nhà của ông già ấy. Tuy nó cũng đơn sơ như những căn nhà khác nhưng nó vừa là Tử cấm thành vừa là Hậu cung của ông ta. Nó nằm giữa một khu vực cực kỳ bí mật và vô cùng quan trọng mà người ta quen gọi là Trung Ương Cục Miền Nam, tức “R”. Tiếp tục đọc

A LADY FROM “R” – novel

LADY1.

It was the first time I left the city for the war zone. Before 1975 in South Vietnam there was nothing strange about it, because thousands of young women as I, also had to do so. They fought, were wounded, died, were imprisoned or won back in Ho Chi Minh campaign as my case.

So my story would have nothing worth to say if I hadn’t met that “old man” in the war zone. He was not a normal person. He was a powerful character of the “R”.

“R”, a legendary name, a holy revolutionary land, was both the obsession and the debt of America. But “R” was what? Perhaps it was abbreviated from the word “Rung” (forest). But the forest where I had come was nothing grandiose, nothing mysterious. It was just a wooded area, flat, pristine and quiet.

But there was a very special residence.

It was that old man’s cottage.

As simple as the other cottages, but it was both his Forbidden City and  his Harem. It was located in the middle of a top secret and most important zone which people named it Central Committee R.

And that fifty-year-old man, though not an Emperor but his power covered all. Everybody called him “Prince.”

My presence at that prince’s harem wasn’t a chance but only a disaster. Later on, it would push me to the continuous tragedies that I wouldn’t know how to resist.

Only few people could see prince’s face. He looked like a flickering shadow behind a nylon wall. The forest was pitch-black but in his cottage, the oil lamp still printed his shadow on the wall. He went back and forth. He listened to the radio. He read the reports. He drank tea. And he was waiting for me.

Tiếp tục đọc

TIỂU LUẬN – chính trị, thời sự

CUOC CACH MANG  black orange

GỒM NHỮNG BÀI VIẾT:

01.Xã hội đèn dầu. 02.Ăn cây nào rào cây nấy. 03.Phảng phất một cái mùi. 04.Những “Lã Bất Vi” thời đại mới. 05.Những con gà nuốt dây thun. 06.Cuộc cách mạng bị thất lạc. 07.Đất nước và nhân dân. 08.Điểm mặt kẻ thù. 09.Khủng hoảng là cái quái gì? 10.Bánh vẽ và mèo. 11.Hồn Trương Ba, da hàng thịt. 12.Sự đơn độc đáng sợ. 13.Dựa vào ai? 14.Huyền thoại quốc kỳ.     15.Phát hiện ở quán cà phê. 16.Obama và hơn thế nữa.  17.Trịnh Công Sơn, anh đã đến trần gian để làm gì? 18.Ông tổng biên tập khổng lồ.  19.Thật, giả lẫn lộn.  20.Bi kịch của thiên tài. 21.Hội chứng khóc lóc ở Bắc Hàn.  22. “Người góp chợ” vĩ đại. 23.Vân Tiên ngồi núp bụi môn.

 

Tiếp tục đọc

NGƯỜI ĐÀN BÀ TRÊN ĐỒI CỎ – nhiều đề tài

 NGUOI DAN BA TREN DOI CON Ộ I   D U N G

01.Nữ giới quyến rũ vì đâu? – 02.Kẻ địch trong nhà bếp – 03.Phá rừng và trồng rừng – 04.Những kiểu ăn xin trên thế giới – 05.Người đàn bà trên đồi cỏ – 06.Mặc áo cho hoa – 07.Quyến rũ bằng hương thơm – 08.Phiếm luận về giày -09.Màu sắc của thời trang – 10.Những biến tấu của chiếc áo dài – 11.Ðàn ông làm điệu – 12.Biện hộ cho vòng số Bốn – 13.Bạn có dám tỏ tình như thế không? – 14.Hạnh phúc trong một chiếc lá – 15.Sợ vợ – 16.Nỗi khổ của người hai vợ – 17.Huyền thoại về người chồng bản lãnh – 18.Hỏi thế gian: tình là vật gì? – 19.Vinh quang của người sợ vợ – 20.Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây lấy vợ Nhật – 21.Gài độ nhậu – 22.Hứa lèo – 23.Tôi đi chợ – 24.Xâu chìa khóa – 25.Cặp song tấu ghi-ta huyền thoại – 26.Chuyện phiếm về con trâu – 27.Cuộc vượt biên ngắn ngủi – 28.Lang thang trong mùa đông – 29.Bùi Giáng  – 30.Văn Cao – 31.Nguyễn Thúy Hằng từ miền đất xa lạ – 32.Con gái của rừng – 33.Chuyện nhảm nhí – 34.Ngôn ngữ trong văn học và nghệ thuật – 35.Chiều thứ tư của ngôn ngữ – 36.Phim Mỹ đủ thứ chuyện – 37.Đông và Tây – 38.Lục tài tử Cam Ranh – 39.Trung Quốc đỏ và đen – 40.Dư âm của hoài niệm rời – 41.Cưỡi ngựa xem Hoa Kỳ – 42.Đào Hiếu quê một cục – 43.Những bông hồng muộn – 44.Thay lời bạt.

 

Tiếp tục đọc

TÁC PHẨM VÀ DƯ LUẬN

CHOEGồm những bài viết:

01.Tác phẩm “Lạc Đường” và dư  luận

02.Từ Lạc Đường đến Lã Bất Vi

03.Suy nghĩ về bài “Những Lã Bất Vi…” 

04.Có phải tất cả do Lã Bất Vi? 

05.Ý kiến về Lạc Đường

06.Đào Hiếu và Lạc Đường

07.Thế là có được một Đào Hiếu

08.Thư của một nhà điêu khắc trẻ

09.Những phản hồi từ tác phẩm Mạt Lộ

10.Đọc và xem Mạt Lộ

11.Vì sao nhiều người đọc Lạc Đường? 

12. Đào Hiếu trả lời phỏng vấn website Da Màu và Việt Báo

13. Chung quanh tác phẩm Nổi Loạn

14. Đào Hiếu và một ngôi trường

15. Ngọn lửa nhò giữa cuộc đời mênh mông

16. Suy nghĩ về những mối tình trong tác phẩm của Đào Hiếu 

17. Cảm nhận tính cách và văn phong Đào Hiếu

18.Đào Hiếu, ông là ai?


Tiếp tục đọc