ĐÀO HIẾU – Tịnh Thất Trên Núi (toàn văn)

“Vô minh duyên Hành. Hành duyên Thức. Thức duyên Danh Sắc…” (Thập nhị nhân duyên)

TÁC PHẨM NÀY ĐÃ RA ĐỜI NHƯ THẾ NÀO?

*

Nếu tôi không gặp người đàn bà ấy thì không thể có tác phẩm này, thậm chí tôi sẽ không hề có ý định, có chút ý tưởng hay dự cảm nào về một đề tài mà tôi không hề ấp ủ dù chỉ như ươm một hạt mầm nhỏ xíu trong trí tưởng.

Người đàn bà ấy là ma-đam X, một người Pháp gốc Việt, có chồng con sống ở Mantes La Jolie, phía nam Paris khoảng 20 cây số.

Thoạt tiên đó là một người xa lạ. Chúng tôi quen nhau trên facebook. Bà đọc những bài viết, những tác phẩm của tôi, và trở thành bạn thân.

Bà là giám đốc một công ty du lịch ở Paris nên có dịp đi khắp thế giới. Trong chuyến về thăm Việt Nam, chúng tôi gặp nhau trong quán cà phê và tôi được biết tuy đời sống của bà rất thoải mái nhưng bà là một cư sỹ. Bà ăn chay trường. Cả chồng và con bà đều ăn chay trường.

Trưa hôm đó bà mời tôi một bữa cơm chay và câu chuyện về chúng sinh, về khổ nạn, về giải thoát… lại được tiếp tục, không phải qua kinh kệ hay giáo lý mà qua những chuyện kể theo cách riêng của bà: thông minh, độc đáo, khác người.

Những tưởng gặp nhau chỉ một lần, nhưng câu chuyện của bà gần như bất tận, kinh nghiệm sống của bà mênh mông… nên chúng tôi phài gặp nhau nhiều lần nữa trước khi bà sang làm việc với chi nhánh ở Canada.

Tại phi trường, bà dặn tôi viết đến đâu gởi cho bà đến đấy. Tôi hứa. Nhưng thực tình tôi không chắc mình có thể viết được và viết thành công về một đề tài mới mẻ và quá khó đối với tôi như vậy.

Mặc kệ, tôi cứ bắt đầu. Tôi gởi thử cho bà đọc chương đầu tiên và bà thích đến độ bảo tôi đưa lên mạng gấp. Tôi nói viết chưa xong và chưa biết mình sẽ dẫn dắt câu chuyện đi đến đâu, kết thúc thế nào. Bà hỏi: “Anh có biết đời mình sẽ kết thúc như thế nào không? Chắc là không. Thế sao anh vẫn sống? Vậy thì tác phẩm này cũng vậy. Hãy cứ cho nó ra đời như nụ hoa vừa hé. Nó sẽ nở thành bông hoa rực rỡ ngát hương hay sẽ tàn lụi, nó sẽ kết trái ngọt hay đắng không quan trọng. Nó phải được sống như anh và em. Nó phải sống dù vô thường. Dù vô minh.”

Tôi nghe lời bà và hôm nay tôi đưa lên mạng.

Vì vậy có thể nó sẽ không xuất hiện đều đặn, có thể nó sẽ tàn lụi nửa chừng, nhưng cũng có thể nó sẽ kết trái ngọt ngào.

Bà đã viết cho tôi từ Vancouver: “Em vẫn tin rằng anh sẽ thành công. Vì sao? Vì chỉ bằng những chuyện kể vụn vặt, có khi chỉ một câu nói, mà anh đã viết được những trang thật kỳ lạ, thật đẹp, thật bất ngờ. Huống chi…”

Cho nên mặc dù tôi đang chịu rất nhiều khó khăn, rủi ro, buồn khổ trong đại dịch Covid 19, tôi vẫn cố gắng viết dù tác phẩm hãy còn hư ảo như khuôn mặt một ai đó trong ánh chạng vạng của hoàng hôn.

Ngày 10/11/2020

ĐÀO HIẾU

1.ĐỨA TRẺ

TRONG PHỐ CŨ

Đó là phố Tàu, nơi ở của cha tôi. Khu phố nhỏ hẹp, ở giữa làng, nhà cửa xúm xít vắng vẻ. Nhờ sự bất biến của nó mà đi đâu tôi cũng nhận ra diện mạo quen thuộc: khu chợ, quán nước, bến sông, những đường mòn loanh quanh, những bức tường vôi lở lói, ẩm mốc và những vách đá ong, xù xì, xám xịt.

Thời gian đọng lại trên những mái ngói âm dương ngả màu rêu đen, trên những lá vú sữa cằn cỗi, nhỏ xíu lay lắt trong nắng trưa.

Đứa trẻ con bụng ỏng, lẫm đẫm đi một mình trên con đường đất quanh co vắng vẻ.

Đứa bé ấy không lớn. Cách đây hai mươi năm, tôi đã từng nhìn thấy nó đi như vậy và bây giờ nó vẫn đi như vậy. Nó cũng bất biến như khu phố Tàu này. Mọi vật đã dừng lại, không có lịch sử, không có quá khứ. Chỉ có hiện tại. Một thứ hiện tại đã hóa thạch, đã khô rốc.

Căn nhà của cha tôi cũng hóa thạch. Cái hố sâu trước sân vẫn còn đọng nước. Năm nào đó một cơn lũ quét ngang qua, cuốn trôi căn nhà nhỏ cùng cây đàn nguyệt, và những bài thơ thất ngôn bát cú.

Tại sao gọi phố Tàu?  Những người già, những võ sư như Hương Kiểm Bá, Tàu Năm, Biện Tây… những kỳ thủ hạng nhứt của xứ An Lộc… tất cả đều người Tàu, quần tụ thành một phố buôn bán nhỏ, lẻ giữa làng.

An Lộc là một cái huyện nhỏ xíu nhưng nhiều nhân tài, nhiều truyền thuyết. Chẳng hạn như người ta đồn võ sư Hương Kiểm Bá có “tuyệt chiêu khăn lông” lừng lẫy giang hồ

Tuy là “lừng lẫy” nhưng chưa ai thấy ông xuất chiêu bao giờ, kể cả con trai ruột của ông là Hai Nghị được ông dạy võ từ nhỏ đến năm 22 tuổi, đã tinh thông quyền cước.

Hai Nghị có thể “xuất môn” hành hiệp giang hồ. Nhưng hắn không bằng lòng với tài nghệ của mình. Hắn vẫn ấm ức vì “tuyệt chiêu khăn lông” đã không được cha truyền lại. Ông không tin con trai của ông hay ông ích kỷ?

Cuối cùng Hai Nhị nghĩ ra được một kế.

Nửa đêm hắn cải trang thành kẻ trộm, đột nhập vào ngay chỗ Hương Kiểm Bá đang nằm. Hắn ra đòn nào, ông võ sư già đều hóa giải được. Ngược lại Hương Kiểm Bá ra đòn nào hắn cũng đón đỡ dễ dàng. Cuối cùng ông võ sư già đành phải giở “tuyệt chiêu”.

Chiếc khăn lông quấn quanh cổ bung ra như một con bạch xà. Lóe như tia chớp.

Hai Nghị dính đòn. Nhưng với căn bản võ học vững chắc, hắn nắm bắt ngay tuyệt chiêu ấy.

Hắn dừng tay, tháo mặt nạ ra, cười ha hả:

“Con đã học được tuyệt chiêu của cha rồi!”

Nhưng võ sư Hương Kiểm Bá chỉ im lặng cúi đầu. Ông ra hiệu cho con trai vào nhà. Hai cha con ngồi đối mặt nhau quanh bàn trà, rồi pha trà, rồi rót vô hai cái tách. Ông hỏi:

“Con có cần nói gì trước khi ra đi không?”

“Đi đâu?”

“Trong hai canh giờ nữa con sẽ chết. Vì con đã trúng đòn của cha rồi. Không có thuốc chữa!”

Chàng trai ôm mặt khóc.

“Đừng khóc, ông võ sư già trầm giọng. Con hãy đi tắm rửa sạch sẽ, bận áo dài khăn đóng, lễ bàn thờ tổ tiên rồi lên giường nằm. Cha không cứu được con đâu.”

*

Cùng năm ấy, cách đây 20 năm, tôi có người anh rể quê ở Rạch Giá, đi lính sư đoàn 22 bộ binh, quân lực VNCH. Những ngày đầu tiên đơn vị anh mới chuyển quân về ngôi làng này, tôi thường dẫn anh đi thăm bà con bên vợ. Người đầu tiên là cậu Ba của tôi, nổi tiếng là dân chơi… vé số. Ngày nào trong túi ông cũng có vài xấp. Đến chiều, trước sân nhà, vé số trật bay như bướm. Ông ngoại tôi để lại mấy mẫu ruộng, bán sạch. Nhịn ăn nhịn mặc để mua vé số, lâu lâu mới trúng được một món nho nhỏ thì cũng đổi ra vé số. Về sau này, khi ông bệnh, không có tiền mua thuốc, bệnh ngày càng nặng. Ông chết. Khi người nhà tẩm liệm, thấy trong túi vẫn còn 12 tấm vé số chưa xổ.

Lúc tôi dẫn ông anh rể đến thăm, thì ông cũng đã yếu lắm nhưng vẫn nhận ra “thằng cháu rể Rạch Giá đẹp trai”. Đôi bên trò chuyện giây lát thì tôi dẫn anh đến thăm ông võ sư huyền thoại với “tuyệt chiêu khăn lông”.

Khi đến nơi thì gặp một bàn cờ tướng, quy tụ bốn nhà vô địch của đất An Lộc mà cũng là cao thủ của tỉnh Bình Định. Trong số các kỳ nhân ấy có lẽ Tàu Năm là đệ nhất.

Tôi và ông anh rể đến đúng vào lúc cục diện đang gay cấn. Tàu Năm đang chiếm thượng phong trước lão Huỳnh Sồ. Huỳnh tiên sinh cầm con mã lên nhưng không dám đi. Hạ thủ bất hườn. Tàu Năm thì ngồi vuốt râu, cười mỉm. Hai người Tàu kia trạc trung niên, coi bộ cũng sốt ruột. Im lặng kéo dài, nhức nhối. Mấy ngón tay lão Huỳnh Sồ bắt đầu run. Đặt quân cờ xuống là chết như chơi! Chết tức khắc. Đột tử.

Ông anh rể khều ngón tay vô nách tôi. Hình như anh muốn bảo tôi bỏ đi cho rồi. Nhưng khi tôi dợm quay lưng đi thì anh nói nhỏ vô tai tôi.

“Phản cung mã!”

Lời anh tuy nhỏ nhưng vì chúng tôi đứng sát sau lưng lão Huỳnh Sồ nên lão nghe được, liền lập tức đi nước “phản cung”

Tôi mù tịt cờ tướng, nhưng khi thấy mặt Hương Kiểm Bá tái mét, mới biết rằng nước đi đơn giản ấy đã lật ngược thế cờ. Hương Kiểm Bá xô ghế đứng dậy.

“Thua!”

Nhưng lão là bậc trưởng thượng trong làng, lão biết phải xử sự thế nào cho phải phép.

Hương Kiểm Bá chắp hai tay, vái ông anh rể trẻ măng của tôi một vái rồi nói:

“Xin cao nhân cho biết quý danh”.

Anh lính trẻ của cụ Ngô Đình Diệm cười bẽn lẽn, lúng túng, chỉ dám ngồi xuống một bên mép bộ phản gõ bóng lộn.

*

Đó là những giai thoại của khu phố Tàu mà tôi đã từng sống suốt thời thơ ấu chiến tranh đầy bom đạn, với những tiếng gầm rít của máy bay ném bom mỗi ngày, với người chết và những mái tranh bốc cháy.

Ngày tôi trở về sau 20 năm, không còn gì nữa. Chiến tranh như cơn lũ, đã cuốn tôi đi năm 20 tuổi, nay trở về thì đã tứ tuần. Lão Tàu Năm, Hương Kiểm Bá, Biện Tây, Cậu Ba vé số… tất cả đều đã khuất, đã thành thiên cổ. Nhưng vẫn còn lại một hình bóng lạ lùng như trong thần thoại.

Đó là cậu bé chừng sáu, bảy tuổi, lẫm đẫm đi trên lối mòn quanh co trong làng.

Lúc ấy là đúng ngọ. Tôi gặp thằng bé ngay khúc quanh chỗ có cây đa già và cái giếng nước bằng đá ong. Tôi tỏ dấu làm quen bằng một cái vẫy tay, nhưng thằng bé bất động. Nó đứng như tượng bên gốc đa, tóc húi cua, mặt bầu bĩnh. Nó mặc một chiếc quần cụt xám tro và chiếc áo bà ba may bằng vải ca rô sọc nâu còn mới. Chiếc áo quá chật nên không thể cài hai nút cuối cùng, để lộ cái rún lồi rám nắng.

Nó cứ đứng nhìn tôi trân trối như thế, gần như không chớp mắt, và cũng không nhúc nhích. Tôi lại gần, ngồi xuống trước mặt nó. Tự nhiên nó cười.

-Sao lại cười?

-Ông giống tôi.

-Không giống. Cháu mới chừng sáu, bảy tuổi, còn chú đã bốn mươi. Và chú vừa từ một nơi rất xa trở về. Ông bà, cha mẹ mất hết, anh em cũng không còn. Bây giờ chú gần như là một người khách lạ. Sao chú có thể giống cháu được chứ.

-Ông không thấy giống, như tôi thấy. Ông hãy nhìn cái áo tôi đang mặc.

Chiếc áo vải ca-rô sọc nâu, quá chật nên không thể cài hai nút cuối cùng, để lộ cái rún lồi rám nắng.

Tôi cảm thấy có một điều gì đó vừa được khai mở. Chẳng phải giây phút đầu tiên gặp thằng bé trên lối mòn, tôi đã có cảm giác như đã từng gặp nó cách đây 20 năm. Vẫn là một đứa bé con. Vẫn dáng dấp ấy. Vẫn lối mòn ấy. Và nhất là chiếc áo ca rô sọc nâu để hở rún.

Tự nhiên tôi rúng động. Tôi nắm lấy tay nó, nhưng nó rụt lại.

-Cháu tên gì?

-Vũ.

-Họ gì?

-Họ Phan. Phan Vũ.

Tôi lạnh xương sống.

-Cha cháu tên gì?

-Phan Duy.

-Mẹ?

-Nguyễn Thị Mai.

Thôi chết rồi! Đó là lý lịch của tôi. Là cha mẹ tôi.

Chiếc áo rằn sọc nâu như rực sáng lên. Mẹ tôi thường bế ngửa tôi để khoe với hàng xóm: “Thằng nhỏ này rún lồi nên nó ngang bướng lắm. Hồi mới đẻ thường khóc ré lên, nên cái rún mới lồi như vậy đó.

Tôi chợt thấy ngại ngùng khi gọi nó bằng cháu.

-Vậy… bây giờ… cha mẹ… đâu?

-Đã chết lâu rồi.

-Bây giờ cháu sống với ai?

-Đừng hỏi.

-Nhà cháu ở dâu?

-Đừng hỏi.

-Cháu đã bao nhiêu tuổi rồi?

-Đừng hỏi.

Mồ hôi vã ra ướt cả lưng, nhưng tôi chỉ lau được quanh cổ. Chẳng lẽ đứa bé này là tôi của ba mươi mấy năm về trước? Chẳng lẽ tôi đã đi ngược thời gian và đang sống trong quá khứ. Tôi cố gắng hỏi một lần nữa:

-Cháu có biết chú là ai không?

-Biết.

-Là ai?

-Đừng hỏi.

Tôi gần như hét lên giữa buổi trưa im lặng.

-Chú chính là Phan Vũ, sinh ra ở cái xứ An Lộc này, cha chú là Phan Duy, mẹ chú là Nguyễn Thị Mai. Và cả cái áo mà cháu đang mặc cũng là của chú. Cái áo quá chật, để hở rún. Rún lồi! Hãy xem này!

Tôi kéo áo của tôi lên để đưa cho nó xem cái rún, nhưng thằng bé đã quay lưng đi, lửng thửng, thong dong và không một tiếng động. Tôi chạy theo nó. Và mặc dù nó đi rất thong thả nhưng tôi vẫn không đuổi kịp. Cuối cùng nó mất hút sau một khúc quanh đầy bụi rậm.

Tôi gọi:

-Phan Vũ! Phan Vũ!

Chợt rợn người khi nhận ra mình đang gọi chính mình.

2.VỊ SƯ GIÀ

TRONG NGÔI CHÙA CỔ

Tôi dự định sẽ chỉ dành một tuần lễ cho chuyến trở về thăm quê này, nhưng thằng bé đã làm đảo lộn mọi dự tính.

Suốt năm ngày tôi đi tìm khắp khu phố cũ và cả những vườn tược, gò đống, những lối mòn quanh co heo hút chung quanh, tôi vào tận chân núi, lùng sục trong nghĩa trang, các ngôi mộ lẻ loi sát bìa rừng, trên bờ suối, trong những nương rẫy… vẫn không gặp nó. Thậm chí cũng không tìm ra bất cứ một dấu vết nào của đứa trẻ mặc chiếc áo vải sọc nâu hở rún mà từ thuở xa xưa tôi đã mặc.

Nó là ai vậy? Sao nó lại có mặt ở đây đúng lúc tôi trở về? Sao nó cùng cha cùng mẹ với tôi? Cả tên họ, cả những dấu vết riêng trên cơ thể?

Nó hiện ra để làm gì? Sao chỉ có tôi nhìn thấy nó, trò chuyện với nó? Hỏi dân làng, không ai biết. Không ai thấy.

Tôi trở về căn nhà đổ nát của cha tôi và gặp những người hàng xóm để chắc rằng tôi đang sống trong hiện tại, để chắc rằng tôi không hề du hành về quá khứ.

Tôi nằm trên chiếc võng rách, nơi cha tôi thường nằm chơi đàn nguyệt mỗi chiều tối. Và đó cũng là nơi cha tôi nằm chết trong đơn độc, trong bóng tối cô quạnh.

Tôi qua đêm ở đó và sáng hôm sau tôi đi Quy Nhơn để hủy chuyến bay về Sài Gòn vì tôi không thể rời làng quê của tôi mà không gặp lại thằng bé, mà không biết nó là ai, nó có quan hệ gì với tôi. Và nó đã gặp tôi để làm gì.

Trả vé xong, tôi lập tức quay về làng. Tôi có linh cảm rằng chúng tôi sẽ gặp lại. Vì nếu nó chính là tôi thì không thể xa lìa được.

Lần trước tôi gặp nó vào chính ngọ. Tôi nghĩ nó chỉ xuất hiện vào thời điểm đó. Tôi đi lang thang quanh khu vực cây đa già và giếng nước. Dự tính sẽ đi như thế cho đến tối.

Đột nhiên tôi nghe tiếng mõ lốc cốc vang ra từ một vùng cây cối rậm rạp. Đó là một quần thể cây cổ thụ tán lá dày đặc, nhiều tầng, kín bưng, không có lối vào.

Tôi vạch lá chui vô trong. Mặt đất chằng chịt rễ cây và dây leo. Tuy các tia nắng không lọt vào được nhưng vì đang chánh ngọ nên vẫn có chút ánh sáng giúp tôi lần bước tìm đến nơi có tiếng mõ.

Càng đi, rừng càng sáng dần.

Bên dưới gốc đa là một ngôi chùa cổ rêu phong được xây bằng đá tảng. Nền chùa cao, nứt nẻ vì rễ cây từ dưới đất đùn lên xô lệch những tảng đá khiến cho các bậc thềm khó đi hơn. Nhưng khi tôi bước qua khỏi các bậc đầu tiên thì đến một cái sân khá rộng, bằng phẳng. Gian chánh điện thấp nhưng vẫn có thể nhìn rõ mọi vật bên trong.

Điện thờ chỉ có một pho tượng Phật bằng gỗ màu nâu đen cao chừng một mét. Hai ngọn đèn dầu hai bên tỏa ánh sáng mờ đục, một cái lư hương bằng sành và chân đèn đã xỉn màu, đặt hai bên dĩa trái cây lớn.

Vị sư già dường như không hay biết có khách vừa đến. Tiếng mõ vẫn đều đặn như tiếng giọt nước rơi chậm vào khoảng không tĩnh mịch.

Tôi không dám bước vào trong, cũng không dám gây tiếng động. Tôi quỳ xuống ngay ngưỡng cửa. Khi mắt đã quen dần với ánh sáng của gian chánh điện, tôi bàng hoàng khi thấy pho tượng Phật bằng gỗ sống động như một thiền sư khắc khổ, nhưng rạng rỡ trong một vầng sáng mỏng sương khói mơ hồ.

Vẻ đẹp ấy làm tôi cúi sát đầu xuống nền đá mát lạnh. Ngay lúc ấy tiếng mõ ngưng lại.

-Mời thí chủ dùng trà.

Tôi ngửng lên thì đã thấy vị sư già đứng ngay trước mặt. Ông đưa tay về phía bộ trường kỷ thấp đặt ở một góc chánh điện.

-Sao thí chủ không đi bằng cổng trước?

-Thưa thầy, tôi chỉ đi theo tiếng mõ.

-Hình như thí chủ không phải là người làng này?

-Tôi sinh ra ở đây và sống quãng đời thơ ấu tại đây, nhưng sau đó chiến tranh, lưu lạc bốn phương. Hai mươi năm mới về lại. Cảnh vật đã thay đổi nhiều lắm.

Cạn một tách trà, vị sư già lại hỏi:

-Vì sao mà đi theo tiếng mõ? Chắc phải có cơ duyên gì đó.

-Đúng vậy. Tôi đi tìm một cậu bé.

-Một cậu bé ở trong rừng?

-Vì đã tìm khắp nơi ở ngoài làng mà không có.

-Nó không có nhà sao?

-Dường như nó chỉ là một cái bóng. Một ảo ảnh. Nó làm tôi sợ, nhưng tôi lại cảm thấy có sự ràng buộc máu thịt với nó. Và hình như chỉ mỗi mình tôi nhìn thấy nó. Dám hỏi, thầy có bao giờ gặp một đứa bé như vậy không? Nó trạc sáu, bảy tuổi, mặc một chiếc áo sọc nâu, hở rún. Cách đây mấy ngày tôi thấy nó biến mất trong vùng cây rậm rạp này.

Nhà sư uống cạn tách trà, cúi đầu im lặng.

Rồi một giọng gần như thì thầm:

-Anh đi theo tôi.

Ông sư già dẫn tôi ra sau chùa, ở đó có cội cây bồ đề to lớn, tán lá dày. Dưới cội cây là một pho tượng nhỏ. Không phải tượng người mà là tượng một con khỉ.

-Đây là Tiểu Hầu Vương.

Tôi cúi sát pho tượng nhìn hàng chữ ghi bên dưới bằng chữ Hán: “Nhị thập lục nhật, tam nguyệt, Quý Tỵ niên.” Hai mươi sáu tháng Ba năm Quý Tỵ. Đó là ngày sinh của tôi. Sao kỳ lạ vậy?

Nhà sư nói:

-Hình như đó là ngày người ta dựng tượng.

Tôi biết là không phải. Và tôi cũng biết rằng người dựng tượng này phải là bậc trưởng thượng trong làng vai về cỡ cha tôi, và biết rõ về cái chết thương tâm của con khỉ nhỏ.

Hôm ấy mẹ tôi mới may cho tôi cái áo vải sọc nâu, nhưng vì đó là tấm vải quá nhỏ (xin của người hàng xóm) nên chỉ có thể may được chiếc áo cũn cỡn, hở rún.

Buổi sáng tôi mặc chiếc áo mới thì buổi chiều cũng chiếc áo đó tôi ẵm con khỉ nhỏ đi chơi. Khi nắng xế vừa dịu xuống tôi định cho con khỉ cưng leo lên cây xoài hái trái thì hai chiếc máy bay giặc Pháp từ phía đèo An Khê xuất hiện, gầm rú trên bầu trời. Một chiếc chúi đầu xuống ngôi làng, ngay trên ngọn xoài.

Tôi ôm con khỉ trước ngực nhưng nó sợ quá liền vọt lên cành xoài. Một loạt đạn làm nhánh cây đứt lìa. Tôi nằm rạp xuống ngay gốc cây. Lúc ấy chiếc Dakota thứ hai cũng vừa ném một quả bom napalm khiến căn nhà tôi bốc cháy.

Tôi không biết lúc ấy cha mẹ tôi ở đâu.

Và con khỉ nhỏ, người bạn thân yêu duy nhất của tuổi thơ tôi có còn sống sót?

Khi hai chiếc máy bay bỏ đi, tôi băng vào những cành lá đổ nát. Tôi chui dưới những cành xoài gãy, vừa vạch lá tìm, vừa khóc.

Cuối cùng tôi cũng thấy nó nằm ngửa, ruột đổ ra ngoài nhưng hai mắt vẫn mở lớn. Tôi bế nó lên. Máu đầm đìa chiếc áo vải sọc nâu của tôi.

Tôi khóc ngất.

Hôm đó là ngày 26 tháng Ba năm 1953, tôi vừa tròn bảy tuổi.

Tôi bế con khỉ nhỏ đi tìm cha tôi nhưng căn nhà tranh của gia đình tôi thì đang bốc cháy. Tôi cứ ôm con khỉ băng qua những đổ nát, khói lửa và tro than để tìm cha mẹ và các anh chị. Con khỉ chưa chết hẳn, Nó vẫn còn ngọ ngoạy trước ngực tôi. Và run lên.

Tôi cởi chiếc áo vải sọc nâu túm nó lại và cố gắng nhét ruột nó vô trong bụng nhưng vô ích. Tuy vậy tôi vẫn nghĩ rằng nó sẽ bớt lạnh khi được gói trong chiếc áo của tôi. Lúc ấy tôi trần truồng. Không biết khi băng qua những cành cây đổ nát và khói lửa ngút trời, chiếc quần xà-loõng của tôi đã tuột mất lúc nào.

Một đứa trẻ bảy tuổi, trần truồng và nám khói, ẵm một con khỉ nhỏ đã chết đi lang thang tìm cha mẹ mình trong bóng hoàng hôn đang phủ xuống rất nhanh trên ngôi làng đổ nát.

Con khỉ nhỏ đã chết trong chiếc áo vải sọc nâu của tôi. Đó là vòng tay của tôi đang ôm nó. Đó là chút hơi ấm của tôi gởi theo nó xuống ngôi mộ nhỏ sau vườn ngay dưới gốc xoài, nơi tôi và nó vẫn thường leo trèo chơi đùa cùng nhau trong suốt thời thơ ấu.

Tôi không biết về sau này ai đã dựng bức tượng của nó bên dưới gốc cây bồ đề này. Nếu không phải cha tôi thì ai có thể biết rõ ngày nó chết?

Và chỗ cây bồ đề này mọc, ngày xưa có lẽ là cây xoài với rất nhiều kỷ niệm. Năm đó tôi bảy tuổi. Ba mươi ba năm đã trôi qua. Chiến tranh tàn khốc. Người Pháp ra đi thì người Mỹ lại đến. Bao nhiêu là khói lửa. Bao nhiêu cuộc bể dâu…

Xin cảm ơn trời đã cho tôi gặp lại nơi yên nghỉ của người bạn thân yêu nhất của tôi ngày xa xưa ấy.

Em ơi! Anh đã về đây! Cám ơn em đã tìm cách hiện thân để gặp anh có lẽ là lần cuối. Ba mươi ba năm, chiếc áo vải sọc nâu bao bọc thân xác em không biết có còn vết tích?

3.BẠCH NƯƠNG CƯ SỸ

Trước khi trở lại Sài Gòn tôi quyết định đến chùa viếng mộ người bạn nhỏ lần cuối.

Vị sư già nói:

-Lớp trẻ sau này không ai biết lai lịch bức tượng Tiểu Hầu Vương này nhưng họ vẫn tin như một thần linh và thường đến đây cầu nguyện.

Tôi không cầu nguyện. Tôi đến để thăm đứa em trai đã chết trên tay tôi ba mươi ba năm về trước, để ôm nấm mồ nhỏ, để khóc thương em và nói lời từ biệt.

Em đã hiện thân để nhắc nhở tôi, cũng hồn nhiên, nghịch ngợm như ngày xưa. Rồi vĩnh biệt.

Tôi ngồi trên tảng đá đen trước pho tượng. Tôi vuốt ve khắp người nó. Và khóc.

-Đừng khóc. Khóc cũng là sân si. Hãy chúc phúc cho chú em nhỏ để tiễn nó đi đầu thai kiếp khác.

Đó là một giọng nữ xa lạ.

Tôi quay đầu lại. Một người đàn bà trẻ trạc ngoài ba mươi, mặc chiếc áo tràng nâu sậm, tóc đen và dày, cột sau gáy, buông hờ hững xuống vai.

-Chào cô, tôi nói, sao cô biết lai lịch con khỉ này?

-Hôm qua nhà sư có kể cho tôi nghe câu chuyện của anh. Không ai biết người nào đã dựng pho tượng này nhưng câu chuyện về anh và chú khỉ nhỏ thì những người già ở đây đều biết. Thật xúc động. Tôi nghĩ rằng chú khỉ đã ở đây chờ anh suốt nhiều năm. Và bây giờ thì nó có thể yên lòng đi đầu thai kiếp khác.

Người nọ dẫn tôi đến ngồi nơi ghế đá. Tôi hỏi:

-Cô để tóc dài, chắc không phải là ni cô, nhưng sao lại mặc áo tràng?

-Tôi là cư sỹ, ăn chay trường nhưng không ở chùa. Hình như anh đã đi lập nghiệp ở đâu xa lắm?

-Chiến tranh đã đưa tôi đi khắp nơi, từ khi còn là trai trẻ. Khi chiến tranh chấm dứt thì xã hội đảo điên, phải vật lộn với nhiều thứ, lúc về lại quê nhà thì đã hơn nửa đời người.

Người nọ mở túi xách, đưa cho tôi chai nước.

-Tôi tên Bạch Nương, ba mươi bốn tuổi. Chưa già lắm nhưng đã muốn đứng ngoài thị phi, vì vậy mà trở thành cư sỹ. Anh có theo đạo Phật không?

-Tôi không theo đạo nào cả, nhưng cũng có đọc một số kinh sách của Phật giáo và cả Thiên Chúa giáo, Hồi giáo. Tuy vậy có một dạo tôi thường đến chùa học thiền và nghe kinh của phái Theravada.

-Vậy là anh không ăn chay rồi. Anh có yêu loài vật không?

-Người bạn đầu tiên của tôi là con khỉ, nhưng tôi cũng yêu chó và mèo.

-Còn em thì yêu tất cả chúng sinh anh ạ. Vì thế mà ăn chay trường. Em vẫn tự hỏi: Tại sao những sinh vật như heo, bò, gà, cá… lại phải bị giết mỗi ngày để nuôi sống chúng ta. Tại sao chúng ta lại nỡ sống bằng cái chết của kẻ khác? Em có mấy đứa bạn rất tâm đắc hai câu thơ: “Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy. Ta có thêm ngày nữa để yêu thương”. Nghe nó đọc xong, em nói: “Đó là những lời giả dối và sáo rỗng. Vì thực tế là: mỗi sớm mai thức dậy, chúng ta có thêm hàng triệu sinh vật bị giết để nuôi chúng ta.” Nghe em nói vậy, người bạn trố mắt nhìn em, kinh ngạc. Anh có hiểu sự kinh ngạc ấy không?

Tôi cũng kinh ngạc. Nhưng không phải kinh ngạc vì tư duy của Bạch Nương cư sỹ mà kinh ngạc vì một người đàn bà trẻ, tươi tắn như vậy lại nhìn đời từ góc độ bi kịch và đầy khổ nạn của cõi vô thường.

Cuộc gặp ngẫu nhiên này đang mang dáng dấp của một kỳ ngộ, chẳng thua kém cuộc gặp lạ lùng với thằng bé mặc chiếc áo vải sọc nâu hôm nào.

Tôi nói:

-Có thể mời em một bữa trưa không?

-Em sẽ mời anh.

-Tại sao?

-Vì em ăn chay trường. Và chỉ có em mới biết nên đến chỗ nào.

4.ĐÀN CỪU CỦA PANURGE

Tôi chở Bạch Nương bằng xe của cô. Ba mươi phút đến biển. Một căn nhà xinh xắn nằm ẩn mình trong rừng phi lao. Chủ nhân đi chợ chưa về.

Thời đó chưa có điện thoại di động, chúng tôi phải ngồi chờ trước hiên nhà. Buổi trưa gió biển lồng lộng. Biển trong xanh. Hoa muống biển nở tím trên một đồi cát thấp  bên hông nhà.

-Anh học sáu năm trung học ở thành phố này. Ở đây vừa có thể tắm biển vừa leo núi. Biển và núi tiếp giáp nhau. Có những bãi đá chập chùng. Có nơi toàn đá tròn hoặc hình xoan nên gọi là Bãi Trứng.

Bạch Nương săm soi chiếc hoa muống biển.

-Hôm nọ bạn em có đưa đi viếng mộ Hàn Mặc Tử, em có xuống Bãi Trứng.

-Thế em có thăm trại Quy Hòa không. Đó là nơi Hàn Mặc Tử trị bệnh phong.

Bạch Nương gật gật, vẫn chơi với cái hoa muống biển.

-Ở xứ em không có loại rau này. Có ăn được không?

-Hình như là không. Quê em ở đâu vậy?

-Cần Thơ, nhưng vì nhỏ bạn dạy học ở đây nên em ra chơi với nó. Nó nấu chay rất ngon. Nhưng mà anh có ăn chay được không?

-Anh ăn gì cũng được. Anh đã từng ăn những bữa chay thịnh soạn toàn món của Đài Loan, chẳng hạn như heo quay chay, gà xé chay, trứng chiên chay… hương vị giống như thật. Ăn cũng ngon nhưng anh lại không thích như thế. Đã ăn chay sao còn nhớ đến mùi vị thịt cá?

Bạch Nương nằm trên chiếc võng gai, đong đưa nhè nhẹ. Cô ném cánh hoa muống biển lên đầu tôi.

-Nhưng vấn đề là anh có thấy ngon không?

-Cũng ngon.

-Vậy là tốt rồi. Bởi vì ý nghĩa của việc ăn chay là để bớt sát sinh, còn món ăn có mùi vị gì, kệ nó. Chỉ là phô diễn tài nghệ nấu nướng mà thôi. Anh nghĩ mà xem. Nếu trong ngày rằm như hôm nay, trên toàn thế giới có 500 triệu người ăn chay thì sẽ cứu được biết bao nhiêu sinh mạng. Đúng không nào?

-Đúng. Nhưng anh sợ người ta dùng hóa chất để tạo mùi vị sẽ không tốt cho sức khỏe thôi.

-OK. Em đồng ý. Nhưng anh yên trí đi. Bạn em sẽ không đãi những món đó đâu.

Quả thật, cô chủ nhà chỉ mua về những nguyên liệu thông thường như đậu hũ, đậu tương, chao, rau quả.

Mất mười giây để chào hỏi và giới thiệu.

Tôi kêu lên:

-Hết sảy! Anh thích bông bí!

-Em cũng thích. Bạch Nương giơ bó bông bí lên. Xào với tỏi.

-Nghe nói những chất kích thích như hành, tỏi, tiêu ớt không phải là đồ chay mà.

-Có người nghĩ như vậy nhưng em thì không. Miễn không phải động vật là được.

Hai người đàn bà lục đục dưới bếp. Tôi đi theo.

-Anh có thể phụ một tay không?

-Why not? Bạch Nương nói. Lặt rau!

Đó là thứ công việc mà tôi sợ nhất.

Đến lượt chủ nhà Ngọc Trâm ra lệnh:

-Bạch Nương! Bà làm ơn lấy cho tui cái chảo để xào bông bí. Ngăn cuối cùng.

Bạch Nương kéo cái hộc tủ ra, thấy trống trơn. Trâm nói:

-Chết cha! Cái chảo nấu chay bà ngoại lũ nhỏ mượn rồi. Thôi để tao đi mua cái khác.

-Khỏi! Tao sẽ dùng cái này. Bạch Nương vừa nói vừa lấy cái chảo ra khỏi giá treo.

-Không được! Trâm nói. Đó là chảo nấu mặn. Chảo xào thịt hàng ngày.

-Đâu có sao! Nó chỉ là một dụng cụ để nấu nướng thôi mà.

-Nhưng nó từng xào thịt. Nó đầy mùi thịt. Nó đã bị ô uế rồi. Bà là cư sỹ ăn chay trường, bộ bà không biết điều đó hả?

-Biết chứ! Nhưng quan niệm đó sai.

-Sao sai?

Im lặng ba giây. Rồi Bạch Nương hỏi:

-Hôm qua là 14 âm lịch phải không?

-Ừ. Rồi sao?

-Hôm qua bà ăn mặn?

-Rồi sao?

-Bà ăn bằng miệng chứ gì.

Ngọc Trâm cười ngất.

-Thôi má ơi! Hỏi cái gì mà kỳ.

-Không kỳ đâu. Trả lời đi!

Trâm chỉ tay vô miệng mình.

-Ăn bằng cái này nè. Bà tính gài tui vô chuyện gì nữa đây?

Đến lượt Bạch Nương cười khúc khích.

-Cái miệng ấy hôm qua ăn thịt bò. Hôm nay muốn ăn chay phải đổi cái miệng khác chứ. Đó là chưa kể cái dạ dày! Giả dụ như có phép lạ thay đổi được cái miệng khác, thì vẫn còn cái dạ dày. Hôm qua nó chứa đầy thịt bò bí-tết, hôm nay sao có thể chứa đồ chay được. Không sợ ô uế sao?! Cái chảo còn phải đổi, sao cái miệng, cái dạ dày lại không đổi?

Chủ nhà “đứng hình”!

Tôi cũng bất ngờ vì câu hỏi ấy. Bèn nhìn kim đồng hồ và đếm: Một. Hai. Ba… Bảy. Tám.

Ngọc Trâm đứng hình đúng tám giây!

Tiếp theo là một tràng cười bất tận.

-Tui lạy bà. Trâm nói. Hết cãi. Tui thua! Miệng lưỡi bà ghê gớm quá. Sao không làm nghề đi đòi nợ thuê mà lại làm cư sỹ?!

-Đôi khi cũng phải “miệng lưỡi ghê gớm” như vậy mới có thể xóa bỏ được những suy nghĩ sai lầm, những thứ đạo đức hình thức.

Ngọc Trâm:

-Nghĩ lại, chuyện cũng đơn giản. Chẳng qua mọi người cứ theo thói quen mà thôi.

Bạch Nương:

-Đó là thói quen hùa theo đám đông. Nói cho văn chương một chút là “hội chứng bầy đàn”. Nói cho trí thức một chút là “syndrome des moutons de Panurge”

Chủ nhà lại đứng hình thêm 8 giây nữa.

-Không hiểu. Nói tiếng Việt đi!

-Những kẻ a dua theo đám đông người Pháp gọi là “những con cừu Panurge”. Có một người chăn cừu tên là Panurge thường bị ông chủ ăn hiếp, anh ta rất tức nên tìm cách trả thù. Ngày nọ, lão chủ chở bầy cừu ra biển, anh chăn cừu năn nỉ xin mua một con. Mua xong, anh dẫn con cừu ra mũi tàu và đẩy nó xuống biển. Thế là cả bầy cừu đều bắt chước nhảy theo. Lão chủ mất bầy cừu mà không làm gì được.

Bạch Nương nói xong, day sang tôi, hỏi:

-Em nói vậy có đúng không Phan tiên sinh?

-Đúng, tôi đáp. Đó là chuyện kể của nhà văn Pháp tên là François Rabelais, thời Phục Hưng ở châu Âu. Và bây giờ, thưa quý bà, tôi đã lặt xong bông bí.

Chủ nhà búng tay.

-Good! Lấy chảo ra đi, đạo cô! Chảo mặn chảo chay không quan trọng, miễn là xào được bông bí.

5.TỊNH THẤT TRÊN NÚI

Chuyến về quê kết thúc.

Bạch Nương nói:

-Em đưa anh ra phi trường.

Chiếc Mazda bốn chỗ xinh xắn. Quốc lộ 19 vừa làm xong, phẳng phiu, đen tuyền, còn hăng mùi nhựa đường.

Qua khỏi cầu Bà Gi thì gặp một đám đông ùn tắc. Một tai nạn giao thông: Xe khách dừng đột ngột. Xe tải phía sau húc tới, đâm ngang đường. Một chiếc xe ngựa chở rau củ chồm lên, lật ngửa.

Hỏi vì sao chiếc xe khách dừng đột ngột thì có người nói đó là do tài xế phát hiện một hài nhi được gói trong chiếc áo vải, vứt bên đường, đang giãy giụa, kêu khóc.

Cảnh sát giao thông cô lập hiện trường, lập biên bản. Người hiếu kỳ bu đến mỗi lúc một đông.

-Kiểu này chắc anh trễ chuyến bay.

-Nếu trễ thì sao?

-Anh còn nhiều việc ở Sài Gòn.

-Em cũng còn nhiều việc ở Đà Nẵng. Nhưng mặc kệ nó. Em luôn sống với hiện tại. Sẽ thấy cuộc sống thanh thản.

Vài chiếc xe con bóp còi, tìm cách vượt qua đám đông. Có xe băng xuống ruộng tính mở đường, nhưng bị sa lầy.

Bạch Nương nói:

-Anh ngồi im trong xe nhé. Em đi xem đứa nhỏ ra sao.

Cô ra khỏi xe, muốn vượt qua rào cản nhưng bị cảnh sát chặn nên đành quay lại.

-Hy vọng đứa nhỏ đã được đưa đi bệnh viện hoặc đã có người nhận nuôi.

Chừng một tiếng đồng hồ sau, khi cảnh sát lập biên bản xong, chiếc xe ngựa được đưa đi, thì đám đông cũng giãn ra, xe tải được kéo vô sát lề, đường được thông. Tuy vậy số hàng hóa trên xe tải và số rau quả trên chiếc xe ngựa vẫn còn tung tóe ngổn ngang trên mặt đường, làm cho chiếc Mazda của Bạch Nương vẫn chưa nhúc nhích được.

Lát sau, khi đám đông giải tán hết, chiếc xe khách cũng chạy đi, thì Bạch Nương mới có thể cho xe lách qua đống đổ nát với tốc độ của một con rùa.

Đột nhiên cô dừng lại.

-Gì vậy? Tôi hỏi.

Bạch Nương tắt máy xe, nghiêng mặt nghe ngóng.

-Anh có nghe tiếng khóc không?

-Không.

Bạch Nương đẩy cánh cửa, ra khỏi xe, tiến lại phía đống rau quả ngổn ngang trên mặt đường nhựa. Cô bê mấy cái bắp cải ném sang bên. Rất hấp tấp. Lúc ấy tôi mới nghe tiếng trẻ con khóc. Tôi chạy đến giúp cô giải tỏa đống đổ nát.

Đứa hài nhi hiện ra trên nền đất đầy những lá cải và những quả cà chua.

Bạch Nương bế đứa bé lên. Chiếc áo vải bọc người nó đã bê bết đất cát và nước rau quả nhầy nhụa. Cô gỡ bỏ chiếc áo ra khỏi người nó và cởi áo khoác của mình ra, bọc lại.

Cô cúi người để ủ đứa hài nhi trước ngực và chạy vội tới xe của mình, lom khom như một người đang lướt đi trong cơn bão. Tôi đỡ cô lên xe và đóng cửa lại.

-Để anh lái.

-Nó đang lạnh cóng. Bạch Nương nói. Anh chạy thẳng tới nhà bạn em.

-Nhà nào?

-Cái nhà hôm trước mình ăn cơm trưa. Nhà sát bờ biển đó.

Tôi phóng xe đi. Hoàn toàn quên mất chuyến bay có lẽ đang gọi tên tôi ở phi trường.

*

Căn nhà đóng cửa kín mít. Khóa ngoài. Tôi bấm chuông và chờ. Không biết cách gì liên lạc với chủ nhà.

-Anh chạy xe ra phố. Em cần mua một ít vật dụng cần thiết cho bé.

Đó là bình sữa, tã lót, quần áo, vớ.

Khi mọi thứ đã mua xong, Bạch Nương chăm sóc em bé thành thạo như một người mẹ.

Bé bú sữa bình và lim dim ngủ.

Tôi hỏi:

-Có nên đưa bé đến viện mồ côi?

-Không. Sẽ phải khai báo và làm thủ tục rắc rối, mất thì giờ. Em cần về Đà Nẵng gấp.

-Em nuôi nó sao?

-Rồi anh sẽ biết. Anh có sẵn lòng lái chiếc xe này đi Đà Nẵng không? Khoảng 5 tiếng đồng hồ. Và đừng nghĩ đến chuyện về Sài Gòn nữa.

-OK. Tôi đáp không do dự, vì biết rằng một mình Bạch Nương, cô sẽ không thể nào vừa lái xe vừa chăm sóc cho đứa hài nhì này được.

*

Nơi đến là một sườn núi tiếp giáp với bãi biển Sơn Chà. Xe đi vòng qua con đường đất hẹp sát biển rồi rẽ trái để leo lên một con dốc thấp. Tới một bãi cỏ bằng phẳng Bạch Nương bảo tôi dừng xe lại. Cô bế em bé ra khỏi xe.

-Không khí ở đây trong lành. Cho bé thở một chút. Nó đã thức dậy.

Gió nhẹ. Một chút sương chiều tản mạn trôi hoang mang trên những khóm lá. Mây núi chập chùng xa, và lặng thinh.

-Anh có nhìn thấy một cái hang đá nhỏ giữa lưng chừng đồi không?

-Có. Bộ đó là nhà của em hả?

-Khùng. Anh nghĩ em là người tiền sử?

-Anh chỉ ghẹo em chút thôi. Hang đá có gì đặc biệt?

-Cách đây nhiều năm, có một người đàn ông trốn ở đó. Còn cái am nhỏ của em thì ở trên núi. Một chiều nọ, em đi dạo ngang qua đây, chợt nhìn thấy có vệt sáng trong hang đá này. Ánh lửa leo lét. Chỉ có thể là một cái bếp, không phải đám cháy. Em nghĩ, trong hang phải có người ở. Và đó là điều rất bất ngờ với em. Em cất cái am này đã lâu, bao nhiêu lần đi ngang hang đá, có bao giờ nhìn thấy ánh lửa đâu. Nhưng em không dám đến gần. Đây là một khu vực hẻo lánh. Người trong hang có thể là tội phạm hình sự. Tuy vậy em vẫn giữ im lặng. Em âm thầm theo dõi. Em không tiết lộ với ai, cũng không tỏ ra cho người ấy biết ngọn núi này là giang sơn riêng của em. Nhưng sự có mặt của hắn là không thể chấp nhận được.

Tôi hỏi:

-Thế em không sợ kẻ đó sao? Em chỉ là một phụ nữ yếu đuối, sống một mình trên núi.

-Hồi đó em mới hai mươi bốn tuổi. Trong cái am của em còn có một ni sư. Bà hơn em mười tuổi. “Con gái Bình Định” mà! Võ nghệ cao cường.

Câu chuyện bắt đầu có kịch tính, bắt đầu rẽ sang một bước ngoặt, thì đứa bé oe oe khóc. Bạch Nương ru nó, đi đi lại trên bãi cỏ. Hoàng hôn xuống nhanh và sương chiều đã tụ lại thành những đám mây mỏng trên những khóm cây thấp phía lưng đèo.

-Mình về đi anh. Trời bắt đầu lạnh. Gió núi làm cho bé khó chịu.

Tôi đỡ Bạch Nương vào xe và tiếp tục chạy lên đồi.

“Cái am nhỏ” của Bạch Nương ẩn hiện dưới những tàn cây. Một ngôi chùa đẹp. Mái ngói đen. Tường xây bằng đá núi xám tro, cổ kính. Sân chùa rộng, đầy cỏ và hoa dại tím ngát mọc hoang dã giữa các hốc đá.

-Vậy mà em nói đây là một túp lều.

Chúng tôi bước chậm trên lối mòn. Đứa bé đã thôi khóc. Bạch Nương nói:

-Lúc đầu cũng chỉ là một mái tranh. Nhưng anh có biết ai đã bỏ tiền ra xây cái chùa này không?

-Ai vậy?

-Đó là người trốn trong hang đá.

-Ô! Vậy bây giờ anh ta cũng ở chung với em sao?

-Anh ta đang ở Mỹ.

Chúng tôi đi vào chánh điện có bàn thờ Phật, vòng ra phía sau, đến một căn phòng khá sang trọng.

Người ni sư già không tỏ vẻ gì ngạc nhiên trước sự có mặt của tôi và đứa hài nhi. Bà chỉ kín đáo chào tôi rồi lặng lẽ thu xếp chỗ nằm cho em bé. Nó được quấn trong chiếc khăn ấm và đang ngủ.

Bữa ăn chiều được dọn ra trong ánh sáng vàng đục của những chiếc đèn lồng khá tinh xảo, hình như được đem về từ nước ngoài. Tất nhiên là một bữa cơm chay nhưng có rượu vang Pháp.

-Anh uống vang đỏ hay trắng?

-Không sợ phạm giới luật sao?

-Em có giới luật riêng của mình.

Tôi nói:

-Vang đỏ thường uống khi ăn thịt, còn vang trắng là cá. Chúng ta ăn chay nên uống gì cũng được.

Bạch Nương có vẻ rất vui. Cô nói:

-Chỉ một sớm một chiều mà mình đã lạc vào thế giới hoàn toàn khác.

-Giống như phép lạ. Tôi nói. Và anh chàng trốn trong hang đá kia cũng là một phép lạ.

-Lạ như thế nào?

-Anh ta có thể biến túp lều tranh thành cung điện. Chắc phải là một đại gia?

-Sai. Đó chỉ là một người tù.

-Vì buôn ma túy?

-Anh ta trốn ra từ trại học tập cải tạo. Một sỹ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa.

-Mà giàu vậy sao?

Bạch Nương nói:

-Hai bàn tay trắng. Lúc em gặp hắn trong hang đá, hắn đói lả.

Tôi uống hết ly vang trắng và với lấy cái tire-bouchon định khui một chai khác. Bạch Nương nói cô thích vang đỏ, rồi cười lớn, lim dim mắt.

-Từ hai bàn tay trắng mà xây được một cảnh chùa, đó chẳng phải là chuyện thần tiên sao?

-Anh muốn nghe câu chuyện đó.

-Có lẽ mọi người đều mệt sau chuyến đi dài. Hãy để một dịp khác.

Tôi rót rượu cho Bạch Nương và hai người cùng uống cạn. Trong ánh sáng ấm áp của những chiếc đèn lồng, khuôn mặt của người thiếu phụ trẻ bừng sáng.

6.NGƯỜI TRONG HANG ĐÁ

Đó là một buổi trưa tràn ngập tiếng ve.

Bạch Nương dẫn theo bà ni sư. Mỗi người cầm một cái xà-gạc, dụng cụ làm rẫy của  người Mạ, và một bình nước. Cô quyết định ra đi vào buổi trưa vì đó là thời điểm có nhiều khả năng đối tượng về hang.

Trời đứng gió. Đường đến hang là một cái dốc thấp, quanh co giữa các gốc cây. Khi hai người đến sát bờ vực thì gió cũng mon men đến, rụt rè như cánh chim lớn từ trời cao muốn làm quen với người trần thế. Lúc ấy tiếng ve cũng bắt đầu thưa thớt. Thung lũng mở ra một khoảng trời mênh mông rất cao và rất xa. Mây núi nhạt nhòa như cổ tích.

Họ dừng lại trước hang đá. Ni sư giắt chiếc xà-gạc vô cái gùi mang sau lưng, tiến lên mấy bước. Bà đằng hắng và nghe ngóng. Không có tiếng đáp lại.

Ni sư bước vào hang.

Bạch Nương nối gót theo, từng bước, từng bước. Hang đá sáng dần lên. Càng vô sâu, ánh sáng càng tràn ngập.

Có tiếng chim ríu rít trên đầu. Họ dừng lại, ngước nhìn. Một khoảng trời rất cao giữa lòng hang. Những nhánh cây nhỏ giao nhau phía trên như nét vẽ đen của tranh thủy mạc. Vài cánh chim chao lượn nổi rất rõ trên một nền trời sáng rực.

Gió từ cửa hang lùa vô, bốc ngược lên cái khoảng trống ấy. Hai người nhìn chung quanh, nhưng không thấy gì. Họ tiến sát vách đá và phát hiện một bếp lửa đã tắt.

Ni sư bốc một nhúm tro than.

-Nó hãy còn ấm.

Bạch Nương lên tiếng:

-Có ai đó không? Chúng tôi đến để giúp bạn.

Im lặng.

Đến lượt ni sư:

-Chúng tôi là những người tu hành. Bạn có cần gì không?

Vẫn im lặng.

Ni sư và Bạch Nương đều đặt gùi xuống và ngồi trên một tảng đá. Mỗi người nhìn một hướng.

Từ trong góc hang tối, một cái bóng bước ra.

Một người đàn ông cao, gầy. Và chậm chạp.

-Anh là ai? Ni sư hỏi.

Câu trả lời trầm, không do dự:

-Tôi không phải người xấu. Không phải tội phạm.

-Vậy tại sao anh lại ở đây?

-Tôi từng ở South Dakota, nhưng…

Người nọ ngồi xuống một tảng đá.

-Bà có một viên kẹo không?

Bạch Nương lục tìm trong túi áo khoác. Rất may là còn một thỏi sewing gum. Cô đưa cho anh ta.

-Tôi tu trên núi này và nhìn thấy ánh lửa của anh đã một tuần nay. Sao anh lại trốn ở đây vậy?

Người đàn ông cúi đầu, không đáp. Anh ta bóc thỏi kẹo cao su đưa vô miệng rồi cất cái vỏ kẹo vào túi áo. Nhưng những ngón tay khẳng khiu của anh không rời cái túi. Một lúc lâu anh ta móc ra một vật gì đó và đưa cho Bạch Nương.

Cô không dám cầm. Cô cũng do dự.

Rồi cô thấy cái vật đó lấp lánh một thứ ánh sáng yếu ớt. Và cô quyết định nhận lấy.

Đó là một tấm thẻ bài.

Ánh sáng trong hang không đủ để cô có thể đọc được những hàng chữ ghi trên miếng kim loại nhỏ, nhưng nó cho cô biết phần nào lý lịch của anh ta.

Cô hỏi:

-Anh là một quân nhân?

-Tôi từng học lái máy bay ở Texas, căn cứ không quân Randolph.

-Tôi hiểu vì sao anh trốn ở đây rồi. Có phải phía bên kia núi có một trại cải tạo?

-Đúng vậy.

-Tôi có thể giúp gì cho anh? Chẳng hạn như đưa anh về với gia đình.

-Không được đâu. Tôi chỉ có thể đi Mỹ. Nếu các vị có thể giúp…

Ni sư nói:

-Vùng biển này khuất tịch. Cây cối rậm rạp, nhiều hốc đá. Tôi từng biết đã có vài chuyến vượt biên khởi hành từ đây. Anh chọn hang đá này là rất thuận lợi. Nhưng anh đang thiếu lương thực và thuốc men phải không?

Người đàn ông cười. Một nụ cười thầm lặng trên gương mặt buồn. Một chút hy vọng, tin tưởng và biết ơn.

Bạch Nương hỏi:

-Nhưng làm sao anh có thể vượt biên mà trong túi không có tiền?

-Cũng đã có những trường hợp ra đi như thế. Nếu người chủ tàu tin tưởng và thương mình.

Bạch Nương trả tấm thẻ bài lại cho người đàn ông.

-Thôi được, cô nói, chuyện đó tính sau. Chúng tôi đã không biết gì về anh nên chẳng đem theo thứ gì cả. Lần sau chúng tôi sẽ mua một ít lương thực và thuốc men. Anh có hút thuốc lá không?

-Tôi đã bỏ hút. Bây giờ chỉ mong được sống. Hàng ngày tôi phải đi đào củ mài, rễ cây để cầm hơi.

Bạch Nương ra hiệu cho ni sư ra về. Cô nói:

-Ngày mai khoảng 4 giờ chiều, chúng tôi sẽ đem các thứ đến, nhưng không vào hang. Chúng tôi sẽ giấu dưới tảng đá lớn bên gốc gây bằng lăng.

Cô đứng lên, cùng ni sư bước ra cửa hang. Nhưng đi được mấy bước thì cô quay lại.

-Tôi chưa biết tên anh.

-Nguyễn Sơn.

-Tôi Bạch Nương.

Cô vừa nói vừa cởi chiếc đồng hồ, dúi vào tay người phi công rồi bước nhanh theo bà ni sư.

7.TẤM THẺ BÀI

Tấm thẻ bài có khắc 3 dòng chữ:

NGUYỄN SƠN

Số quân: 67/409.806

Nhóm máu: B

Đó là bằng chứng duy nhất anh còn giữ được để chứng minh anh là sỹ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa.

Tấm thẻ không chỉ có ý nghĩa như một tín vật đối với Bạch Nương mà sẽ còn rất quan trọng đối với người Mỹ sau này.

Đã nhiều ngày Nguyễn Sơn ngồi chờ ở góc biển với tấm thẻ bài cất kỹ trong ngực áo.

Có một phần của ngọn đèo nhô ra biển, che khuất tầm nhìn, tạo ra một hẻm núi hẹp. Đó là một giang sơn tách biệt, kín đáo, ẩn mình sau những vùng cây rậm rạp xanh tốt quanh năm.

Cơn địa chấn của hàng trăm triệu năm trước đã tạo ra những hốc đá âm u, giang sơn của chim chóc. Ngày nay vùng biển này đã biến thành nơi trung chuyển của những chiếc “ghe taxi” chở người vượt biên từ đất liền ra thuyền lớn chờ sẵn ngoài khơi.

Sơn tựa lưng vào gốc cây, nghe ngóng tiếng động cơ ghe máy. Đã hơn một tuần, góc biển yên tĩnh. Chỉ có tiếng sóng vỗ rì rầm vào hốc đá, tiếng róc rách của những khe nước nhỏ từ trên sườn núi đổ xuống biển.

Hành trang của anh chỉ là một túi vải sờn rách đựng bàn chải răng, cái dao cạo râu đã cùn, một con dao nhỏ, cái muỗng nhôm và một chai nước bằng nhựa. Anh không có tiền, không có vàng, không có giấy tờ tùy thân.

Chỉ duy nhất một tấm thẻ bài.

Chờ mãi, chờ hoài. Từ sáng tinh sương tới chiều tối. Có khi đến nửa đêm. Có khi chỉ cần một đóm sáng ngoài khơi xa cũng bừng lên thành tia hy vọng. Và nhiều lần chỉ vì cái đóm sáng nhỏ nhoi ấy mà anh phải ở lại góc biển này suốt đêm. Anh ngủ co ro trong một hốc đá nhỏ.

Nguyễn Sơn không có bất cứ một dụng cụ nào để bắt cá, kể cả lưỡi câu và sợi dây cước. Cũng không có lưới. Nhưng anh vẫn bắt cá được. Đó là tuyệt chiêu anh học được trong trại cải tạo. Nhưng chiêu này chỉ có hiệu quả ở những vùng sông biển hay ao hồ có nhiều hang hóc.

Những lúc không đào được củ mài hay hái được quả rừng, anh phải mạo hiểm lặn xuống biển. Phải chờ khi biển lặng. Anh cởi truồng, trải chiếc quần đùi trên đá và lấy một hòn đá nhỏ đè lên.

Anh chỉ có cái quần đó.

Giống như chàng Chử Đồng Tử trong truyền thuyết. Nhưng chàng phi công Việt Nam Cộng Hòa không chờ công chúa Tiên Dong con vua Hùng, chàng chờ tàu để sang bên kia bờ Thái Bình Dương. Chờ đã mõi mòn trong nhiều tháng.

Sơn hít một hơi dài rồi lặn sâu xuống nước, tiến sát các hốc đá ngầm phía dưới. Những con cá nghe động, trốn vào hang. Anh men theo vách đá, thọc tay vào hang và tóm được một chú cá mè to bằng bàn tay. Anh cắn nó giữa hai hàm răng và lại lặn xuống tìm những cái hang khác.

Anh bắt thêm một con cá nữa, cầm chắc trong tay rồi trồi lên mặt nước.

Anh xâu hai con cá vào một sợi dây, ngồi nghỉ mệt dưới bóng cây. Khi anh định lặn xuống nước lần thứ hai thì nhìn thấy một vật gì màu đỏ, từ xa đang trôi rập rềnh đến gần chỗ anh ngồi.

Lúc khoảng cách chỉ còn chừng 5 mét thì anh nhận ra vật đó là một chiếc thau nhựa lớn đang chứa một vật gì trong đó khá nặng. Chính sức nặng của nó đã giữ cho cái thau được thăng bằng trên những con sóng nhỏ.

Nguyễn Sơn thả mình xuống nước, bơi nhẹ và chậm đến gần.

Trong thau là một đứa trẻ sơ sinh được bọc trong cái mền chỉ. Điều kỳ diệu là đứa bé đang ngủ say, hồn nhiên như một thiên thần.

-Chúa ơi! Sao ngài lại ban cho con đứa trẻ này? Con nuôi bản thân còn không được. Bữa đói bữa no. Lấy gì nuôi nó.

Anh vừa bơi vừa đẩy cái thau nhựa. Do dự, không biết có nên thả cho chiếc thau tiếp tục theo dòng hải lưu đi vòng chân núi, muốn tấp đâu thì tấp?

Rồi anh nghĩ tới Bạch Nương và bà ni sư. Anh quyết định đưa đứa bé vào bờ. Anh lặn xuống, đội cái thau lên đầu, dùng hai tay nâng nó lên, đặt trên phiến đá bằng phẳng.

Đứa bé thức dây. Nhìn thấy anh. Nó cười. Người mẹ nào đó đã cẩn thận đặt bên cạnh con mình hai bình sữa, bốn lon sữa bột, mấy cái muỗng, khăn lau và tã lót. Phía dưới những miếng tã lót là một bức thư:

“Vì hoàn cảnh cùng quẫn tôi không thể nuôi đứa bé này được, xin làm phước nuôi cháu, sau này có duyên gặp lại tôi xin đem thân mình ra đền ơn đáp nghĩa. Cháu tên Lâm Oanh sinh ngày… tháng… năm… tại phường… quận 3 Đà Nẵng.”

Sơn thu xếp về thật nhanh để tìm cách báo tin cho Bạch Nương vì mình hoàn toàn không có chút kinh nghiệm nào về chuyện nuôi một đứa trẻ sơ sinh.

Anh cột chiếc túi vải và xâu cá vô thắt lưng rồi bế đứa bé trước ngực, băng rừng trở về hang đá.

*

Như một phép lạ, bà ni sư đã ngồi sẵn trong hang chờ anh.

-Trời ơi! Trẻ con ở đâu vậy?

-Người ta thả trôi ra biển. Tôi không thể bỏ được.

-Anh nuôi được sao?

-Tôi đã nghĩ tới bà và cô Bạch Nương. Lẽ ra phải hỏi ý kiến trước nhưng… bà cũng biết là không thể.

Ni sư thở dài, kèm theo lời than; “A Di Đà Phật! Nghiệp chướng! Nghiệp chướng!”

Bà bảo người đàn ông đun nước và đưa hai tay bế đứa nhỏ. Một đứa bé gái trắng hồng, xinh xắn và lúc nào cũng im lặng.

Nguyễn Sơn trao bức thư của người mẹ cho ni sư. Bà cất nó trong cái ví nhỏ bằng vải nâu. Sơn hỏi:

-Bà đến đây đột ngột như vậy, có gì chỉ bảo?

-Cô chủ dặn anh: “Đêm 30 âm lịch, anh ra góc biển đợi. Sẽ có ghe chèo đến đón.”

-Nhưng tôi không có tiền. Cũng không có vàng.

-Không cần. Họ sẽ hỏi anh tên gì. Anh đáp: Nguyễn Sơn. Và đưa tấm thẻ bài có tên anh. Là đi. Mọi chi phí đã có người lo. Nhớ. Đêm 30 âm lịch nhé. Đêm đó không có trăng.

Dặn dò xong ni sư cầm bình sữa cho bé bú rồi bế nó ra khỏi hang. Lúc đó trời đã xế bóng.

*

Hôm Tôi và Bạch Nương đưa đứa bé thứ hai từ Bình Định về tịnh thất thì cô bé này đã lên 10 và đang ở Mỹ với ba nó: Thiếu tá Nguyễn Sơn của quân lực Việt Nam Cộng Hòa.

8.BỂ KHỔ TRẦM LUÂN

Đã đến lúc tôi phải về Sài Gòn. Bạch Nương đưa tôi đi Đà Nẵng để mua vé máy bay và vài thứ lặt vặt.

Ba ngày sau mới có chuyến bay. Điều đó không quan trọng. Bạch Nương thường nhắc tôi hãy sống ngay trong giây phút hiện tại.

Chúng tôi đến một cái chợ nhỏ ở ngoại ô Đà Nẵng mua một ít đồ chay đem lên núi.

Bất ngờ, hai chúng tôi bị ném vào một vòng xoáy chảy xiết, một cái lỗ đen (black hole) hun hút, hoảng loạn chưa kịp định thần. Đứng không vững. Thở không ra hơi. Choáng váng.

Hàng hóa, thực phẩm, gia cầm, cá biển, ếch nhái, rau quả… bày tràn lan trên vỉa hè. Những tảng thịt bò, thịt heo treo lủng lẳng trên móc sắt. Cháo lòng, hủ tiếu, mì… bốc khói trên những xe đẩy. Người mua thì tràn ngập lòng đường. Xe gắn máy gầm rú, len lỏi qua đám đông. Người, động vật, hàng hóa… trộn lẫn vào nhau thành một đống hổ lốn, được bao trùm bằng một rừng tiếng động hùng hổ, thô bạo, rối rắm, bát nháo, từ dưới mặt đất ướt nhẹp đùn lên, từ trên những lều bạt, mái tôn rỉ sét dội xuống.

-Gà vườn hăm lăm ngàn/ký đây!

-Cá lóc hai chục ngàn.

-Ếch 5 con ba chục. Ba chục 5 con!

Cô gái trẻ một tay tóm lấy con ếch trong cái xô nhựa, tay kia cầm cái búa đập mạnh vào đầu nó rồi thảy ra thớt. Lười dao phập xuống, đứt lìa cái đầu. Hai ngón tay kéo tuột một phát, con ếch bị lột da trong ba giây. Bàn tay đầy máu.

Sát bên cạnh là cái bu gà. Những con gà mái tơ thanh mảnh, hiền hậu, ngơ ngác như cô gái quê khờ dại không hề biết mình sắp bị hành quyết. Người đàn ông thọc tay vào bu gà, túm lấy hai chân, cạnh ông là một cái hộp sắt, có một lỗ ở giữa. Bên dưới cái lỗ, giấu một lưỡi dao được điều khiển bằng điện. Người đàn ông túm ngược con gà, nhét nó vô cái lỗ đó. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy một cái máy cắt cổ gà như vậy. Con gà chỉ rùng mình một cái rồi bất động. Máu chảy thành dòng vào trong cái chậu sành hứng phía dưới.

Cá rô bị đánh vảy bằng cách mài từng con trên mặt đường nhựa cho đến chết. Cá lóc thì bị đập búa liên tiếp vào đầu. Nó chỉ quẫy mấy cái rồi nằm im. Những con cá lóc chỉ nặng chưa đầy một ký. Không cần phải dùng cán cuốc như Pol Pốt. Và không cần phải có những hố chôn tập thể. Con người sẽ “chôn” chúng trong dạ dày của mình.

Lúc ra về, ngồi trên xe của Bạch Nương, tôi đã mô tả những hình ảnh đó. Cô sụt sịt khóc:

-Chúng ta đang sống trong bể khổ trầm luân. Từ hàng ngàn năm nay con người đã được trang bị sẵn một nghĩa trang dành cho loài vật. Đó là cái dạ dày. Không cần dòi bọ để phân hủy những xác chết vì trong dạ dày đã có dịch vị. Mỗi chúng ta đều có một thể xác, một linh hồn, một trí tuệ và một… nghĩa trang như vậy đó.

Chiếc Mazda chao mạnh, suýt đâm vào lề đường.

-Em xúc động quá, để anh lái cho.

Tôi nói và đặt tay lên vô-lăng. Bạch Nương dừng xe, mở ví lấy cái khăn ướt lau mặt.

-Không sao. Em lái được.

Cô cho xe chạy chậm. Im lặng một lúc lâu. Bạch Nương nói bằng giọng rụt rè.

-Đáng buồn là có những người nghĩ rằng họ có quyền sống bằng sinh mạng của kẻ khác. Em từng đọc những dòng trong sách Sáng Thế Ký: “Thiên Chúa ban phúc lành cho ông Nô-ê và các con ông, và Người phán với họ: Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất. Mọi dã thú, mọi chim trời, mọi giống vật bò dưới đất, và mọi cá biển sẽ phải kinh hãi khiếp sợ các ngươi: chúng được trao vào tay các ngươi. Mọi loài di động và có sự sống sẽ là lương thực cho các ngươi. Ta ban cho các ngươi tất cả những thứ đó, cũng như đã ban cỏ xanh tươi.” (St 9,1-3)  “

-Anh cũng từng đọc những dòng đó. Nhưng anh không tin Thiên Chúa đã nói như vậy?

-Tại sao anh không tin?

-Vì anh vẫn nghĩ: Mỗi sinh vật trên hành tinh này từ con ve cái kiến đến gia súc, loài bò sát, tôm cá, chim muông… đều là những kiệt tác của tạo hóa, thì không có lý do gì Ngài lại ban cho loài người cái quyền được hủy diệt những kiệt tác ấy của Ngài để làm “của ăn”. Anh vẫn ngờ rằng người đời sau đã viết thêm phần này.

Nếu đúng như nguyên văn trong st 9,1-3 của Cựu Ước thì chẳng khác nào một nhà văn sáng tạo ra  một kiệt tác văn học rồi lại vứt ra chợ cho người ta gói đồ.Tạo hóa không bao giờ dành một đặc ân lớn như vậy cho loài người, một giống loài mà chính Ngài đã đánh giá là “đầy tội lỗi, tham lam, sai lầm và độc ác” đến nỗi Ngài phải dùng cơn đại hồng thủy để xóa sạch và tạo dựng một loài người mới.

Các kinh sách của những tôn giáo khác như Phật giáo, Khổng giáo cũng đều do các đệ tử đời sau chi chép hoặc viết lại theo trí nhớ, theo nhận thức riêng của mình, như thế không thể tránh khỏi tình trạng “tam sao thất bổn”.

Bạch Nương nhìn thẳng vào mắt tôi.

-Em thấy rằng tất cả chúng sinh đều được sinh ra và chết đi theo những ngẫu nhiên lạnh lùng, vô cảm như máy móc. Không có gì là thiêng liêng cả. Phải chăng chúng sinh đã được sinh ra từ những quy luật máy móc của vật lý, hóa học hay sinh học. Hỏi thực nhé. Anh tin có đấng tạo hóa không?

-Anh không đủ trình độ để trả lời câu hỏi ấy. Nhưng có một nhà bác học còn vỹ đại hơn cả Einstein đã giải thích về sự ra đời của vũ trụ và loài người theo cách riêng của ông. Đó là Stephen Hawking. Có nghĩa rằng ông ta có một thứ “sáng thế ký” hoàn toàn khác. Rằng sự có mặt của loài người cũng hoàn toàn khác.

-Khác như thế nào?

-Anh sẽ trình bày vào một lúc khác. Nhưng đại loại là tất cả vũ trụ và chúng sinh đều bắt đầu bằng những “hạt”. Cụ thể là neutron và proton, từ đó sinh ra helium rồi carbon, oxygen. Tiếp theo là DNA. Đó là khởi đầu của sự sống. Anh nhớ một câu Stephen Hawking nói đại ý: “Sau vụ nổ Big Bang thì thời gian chưa tồn tại. Khó có thể tưởng tượng rằng Thượng Đế có mặt khi chưa có thời gian. Vậy thì ai đã tạo ra vũ trụ?”.

Bạch Nương mở to mắt nhìn tôi.

-Em không hiểu thế nào là “thời gian chưa tồn tại”.

-Anh sẽ cố gắng giải thích. Có lẽ anh cũng mơ hồ. Nhưng anh tin vào Hawking vì ông rất vỹ đại. Cũng như anh tin vào Albert Einstein khi ông nói: “Những gì tôi đã bỏ nhiều năm nghiên cứu về vũ trụ thì đức Phật đã nói đến cách nay hơn 2.500 năm rồi”. Đức Phật cũng là một người vô thần. Ông giải thích vũ trụ và sự sống bằng sự hợp tan của ngũ uẩn. Hoàn toàn không có gì là siêu hình. Nhưng mà thôi, chúng ta sẽ trở lại vấn đề này trong một dịp khác.

9.THIÊN CHÚA

KHÔNG CHƠI SÚC-SẮC

-Đây là nơi Nguyễn Sơn thường nằm để đợi những chiếc ghe taxi. Anh hãy nằm xuống đi.

Tôi nằm xuống, nhìn nắng ửng lên những tán lá nhiều tầng trên cao. Chúng giống như những tầng trời nhỏ, nhiều sắc độ và long lanh sáng. Chúng tĩnh lặng dù có chút xao động, có chút thầm thì đâu đó.

Bạch Nương ngồi dưới chân tôi, nhìn ra khơi, nơi chân trời lẫn mất trong khói sóng. Biển và trời đang hòa nhập, pha trộn thành một sắc xanh hư ảo, nơi có những cánh chim vô định, tản mác, mơ hồ.

-Sáng hôm qua, đó là lần đầu tiên em đi chợ. Bạch Nương nói. Trước đây, em chỉ đến những cửa hàng bán đồ chay trong phố. Em không ngờ có những khu chợ lạ lùng như thế.

-Chẳng có gì lạ cả. Tôi nói. Nhiều người vẫn sống cuộc đời êm ả của mình. Với gia đình, với những khu phố, những cửa hàng sang trọng, những văn phòng có máy lạnh và nhạc nhẹ. Họ đã quên rằng bên cạnh cái thế giới ấy là những thế giới khác: cùng khổ, chụp giựt, cướp bóc, tranh giành, chặt đầu lột da, thọc huyết, lóc xương thịt. Nghe rùng rợn quá phải không? Nhưng chuyện đó xảy ra mỗi ngày ở những lò mổ, ở những khu chợ mà em vừa thấy. Những người già ăn xin ngủ gầm cầu, những đứa trẻ lăn lóc trên vỉa hè, những bệnh nhân nghèo nằm chen chúc trong hành lang ở bệnh viên… Và nhiều thế giới khác nữa.

-Nhưng tại sao con người lại phải chịu những khổ nạn ấy? Em là người tu hành từ khi còn bé. Em đọc kinh kệ, nghe thuyết giảng giáo lý. Nhưng em chưa từng thấy người ta chặt đầu lột da một con ếch. Em chưa từng thấy người ta mài những con cá dưới mặt đường cho đến chết. Sao lại phải làm vậy?

-Vì có những người mua cần những con ếch, những con cá như vậy để làm món ăn.

-Nhưng anh ơi, các sinh vật ấy cũng cần sống và sợ chết như chúng ta. Anh biết không, lúc cô gái cầm lưỡi dao lên để chặt đầu con ếch, em thấy nó đưa tay đỡ. Em chỉ muốn ôm mặt và bỏ chạy. Sao không ai cứu nó? Sao Thượng Đế tạo nó ra với đầy đủ ý thức về sự sống và sự chết mà ngài lại để cho con người tự do giết nó mỗi ngày như vậy?

Tôi ngồi dậy, tựa lưng vào gốc cây, đốt một điếu thuốc. Tôi nhăn mặt vì khói thuốc làm cay mắt.

-Bởi vì… bởi vì…

-Vì sao? Anh nói đi.

-Vì thực ra không hề có Thượng Đế. Chỉ có những quy luật của vật chất. Những quy luật của tự nhiên. Những quy luật của tiến hóa, tự sao chép, tự phát triển như những cỗ máy ngày càng tinh vi…

-Có phải đó là sự ly hợp của Tứ Đại mà đức Phật gọi là Ngũ Uẩn không?

-Gần như vậy. Tứ đại được hiểu là Nước, Lửa, Khí và Đất. Nên thân xác của chúng sinh được gọi là “tấm thân tứ đại”. Sự kết hợp của tứ đại gọi là “sống”. Sự ly tán của tứ đại gọi là “chết”. Chính vì thế mà chúng sinh luôn bị dìm trong cái quy luật hợp-tan máy móc ấy.

-Nhưng máy móc thì không sợ chết còn chúng sinh thì sợ chết. Chúng sinh đau khổ. Vì chúng sinh có ý thức. Chính ý thức là bi kịch. Nó ở đâu ra vậy? Nó là cái gì vậy?

-Ai cũng biết ý thức tồn tại, nhưng không ai biết bản chất ý thức là gì. Các nhà khoa học muốn nắm bắt được ý thức, nhưng họ chỉ tóm được cái bóng của nó chứ không phải bản thân ý thức. Vấn đề bản chất của ý thức đã trở thành bài toán khó nhất đang thách thức khoa học…(Everyone knows that consciousness exists, but no one knows what the nature of consciousness is. Scientists want to grasp consciousness, but they grasp only its shadow, not the consciousness itself. The problem of consciousness’ nature has become the hardest problem challenging science…). Nếu có một cái gì đó hiển nhiên rõ ràng nhất nhưng lại bí ẩn khó hiểu nhất thì đó là Ý THỨC.

Trong một bài báo trên tờ The Guardian của Anh ngày 21/01/2015, Oliver Burkeman đặt câu hỏi: “Tại sao những trí tuệ vĩ đại nhất thế giới đều bất lực trước bí mật của ý thức?” (Why can’t the world’s greatest minds solve the mystery of consciousness?).

-Bất luận ý thức là gì thì chính nó cũng cho con người biết sự đau khổ của chúng sinh. Ví dụ như cô gái chặt đầu lột da con ếch kia, chắc chắn cô ta cũng biết rằng con ếch đang sợ chết. Sao cô ta vẫn giết. Cứ mỗi sớm mai thức dậy là có hàng trăm con ếch bị cô ta chặt đầu lột da. Tại sao vậy? Cô ta có phải là con người không?

-Sự bát nháo ở ngoài chợ chỉ là bi kịch của mưu sinh. Bi kịch ấy khiến con người trở nên tàn ác. Nhưng sự tàn ác ấy là con đẻ của một sự tàn ác khác: Đó là quy luật sinh tồn, quy luật ấy bắt con người phải giết và phải chết. Giết và chết là trò chơi của tạo hóa, hay đúng hơn là trò chơi quy luật của vật chất mà khởi đầu là những hạt năng lượng.

Khu chợ xổm náo nhiệt, chụp giựt mà em vừa thấy, chính là sân khấu của trò chơi ấy, vở kịch ấy. Một ngày mới bắt đầu bằng triệu triệu cái chết. Hàng loạt. Lạnh lùng. Vô cảm. Máy móc. Guồng máy giết chóc ấy cứ lập đi lập lại hàng ngày. Đời những con người lao động cứ lập lại theo cái nhịp điệu giết chóc dã man ấy để kiếm sống.

Stephen Hawking xem con người cũng là một con vật ký sinh. Tức là sống bằng thân xác của những sinh vật khác. Cái thói quen ký sinh ấy có từ ngàn xưa. Đó là một trật tự của cuộc sinh tồn. Ai đã tạo ra cái trật tự ấy? Thượng Đế? Thượng đế tàn nhẫn như vậy sao?

Cho nên cả Stephen Hawking và Albert Einstein cùng nhiều nhà khoa học khác đếu không tin có Chúa.

Trong một lá thư đề ngày 24/3/1954, Einstein viết: “Tôi không tin vào Chúa, và tôi chưa bao giờ chối cãi điều đó. Tôn giáo của tôi là sự ngưỡng mộ CẤU TRÚC CỦA THẾ GIỚI XUNG QUANH”.

Khi nhắc đến “cấu trúc”, Einstein muốn nói rằng vũ trụ đã vận hành theo một trật tự. Một câu nói rất nổi tiếng của ông đã khái quát điều đó: “Thiên Chúa không chơi trò súc-sắc” (God doesn’t play dice with the universe.)

Nhưng hậu bối của ông, một nhà bác học khác là Stephen Hawking lại đưa sự xuất hiện của các hố đen làm ví dụ, và tuyên bố rằng Thiên Chúa không những chỉ chơi súc sắc mà Ngài còn ném chúng vào nơi ta không thể tìm thấy.

Stephen Hawking cho rằng mọi thứ trong cuộc sống của chúng ta đều là ngẫu nhiên. Ông nói đùa: “Ngay cả những người theo thuyết định mệnh trung thành nhất vẫn phải nhìn quanh trước khi băng qua đường”.

10.BUỔI GIẢNG

CỦA NHÀ SƯ KHẤT THỰC

Tiễn nhà văn lên máy bay về Sài Gòn xong, Bạch Nương đến ngay chỗ hẹn với một người bạn. Chị này mô tả đó là cuộc thuyết pháp của một lão hòa thượng thuộc phái khất thực áo vàng, nhưng đó lại là bữa tiệc trong một restaurant sang trọng.

Nơi nhà sư gặp gỡ các đệ tử là một căn phòng rộng có máy lạnh. Quanh bàn tiệc của ông chỉ có hơn mười người. Thức ăn trên bàn toàn đồ “mặn”.

Một bữa khá thịnh soạn, nhưng vì Bạch Nương ăn chay trường nên chị phải ngồi ở một bàn nhỏ kế bên, gần cửa sổ và gọi món chay, vì thế người bạn phải đến ngồi chung với Bạch Nương.

-Xin lỗi. người bạn nói, mình cứ tưởng thầy thuộc Bắc tông, ăn chay. Nghe nói thầy từ Đài Loan sang.

-Không sao. Quan trọng là thầy giảng như thế nào.

Nhà sư đang giảng về Tứ Niệm Xứ. Đúng ra là ông vừa ăn vừa nói chuyện với mọi người về phép tu tập này. Ông nói tiếng Quan Thoại khá rõ ràng lưu loát nhưng người thông dịch nhiều lúc lại tỏ ra lúng túng trước những thuật ngữ đặc biệt của phép tu, nên phải im lặng hoặc dịch sai lạc rất nhiều.

Bạch Nương nói điều đó với người bạn. Người này bèn rỉ tai cô thông dịch và cô này liền nhờ Bạch Nương dịch giúp.

Tuy nhiên khi đến ngồi cùng bản với nhà sư, Bạch Nương khám phá ra một điều rất thú vị: Ông không bao giờ gắp thức ăn. Ông cứ ngồi im. Ngồi kiết già. Trước mặt ông không có chén, đũa, nỉa, muỗng gì cả. Việc gắp thức ăn đã có hai ni cô lo. Một cô bên phải, một cô bên trái. Mỗi khi ông ngừng nói thì cô bên phải liền gắp thức ăn đút vô miệng ông. Lần sau, đến lượt cô bên trái.

Đôi khi hai cô lo ra chuyện gì quên đút, thì thầy lấy ngón tay trỏ ra hiệu. Có khi thầy nháy mắt hoặc dùng ngón tay “chạm vào dĩa thức ăn” mà thầy thích. Món yêu thích đó thường là gà nướng và heo sữa quay.

Bạch Nương ghé tai người ban:

-Sao thầy không tự gắp thức ăn cho tiện mà phải làm vậy?

-Thầy thuộc phái khất thực, ai cho gì ăn nấy. Không tự mình giết thịt vì đó là sát sanh. Không đòi hỏi thức ăn vì đó là “ái dục”.

Bạch Nương gật gật cho qua chuyện, rồi lại tập trung vào việc thông dịch:

-“Quán Thọ là nhận biết rõ những cảm giác, cảm xúc dấy lên trong tâm, biết chúng là dễ chịu (lạc thọ), khó chịu (khổ thọ) hay trung tính (bất khổ bất lạc thọ), nhận biết chúng là thế gian hay xuất thế, biết tính vô thường của chúng”.

“Quán Tâm là chú ý đến các ý nghĩ đang hiện hành, biết nó là tham hay vô tham, sân hay vô sân, si hay vô si, biết rõ tâm đang thâu nhiếp hay tán loạn…”

Ông dừng lại và há miệng đón thức ăn từ đôi đũa của ni cô. Đó là lúc Bạch Nương nghỉ ngơi. Nhưng cô rất khó chịu vì không quen với mùi vị của thịt gà nướng và heo quay. Lúc nãy ở bàn bên kia người ta dọn đồ chay ra, cô chưa kịp gắp miếng nào nên rất đói.

Buổi tối, khi về đến tịnh thất của mình Bạch Nương rất mệt nhưng cô không muốn ăn vì tâm trạng rất nặng nề.

11.KÝ SINH TRÙNG

Đứa bé lớn lên giữa núi đồi, tươi tắn như chồi cây, rạng rỡ trong chiếc nôi ấm áp.

 Khi mới đem về, bé thường im lặng, suốt ngày lim dim ngủ như con chó con. Bây giờ nó cười. Khi cười nó cũng im lặng, kín đáo. Không biết con cái nhà ai mà nền nã, nhu mì, e ấp. Cái cách nó bú cũng từ tốn, đam mê mà hồn nhiên, thanh thoát.

Bà ni sư bước vào phòng nói có điện thoại và cầm lấy bình sữa. Bạch Nương ra trước chánh điện, nhấc ống nghe lên.

Đó là điện thoại của nhà sư khất thực người Đài Loan. Cô vốn không thích nhà sư này nên rất khó xử khi ông ngỏ ý muốn đến thăm tịnh thất của cô. Trong khi cô đang do dự lựa lời từ chối thì ông đưa ống nghe cho chị bạn.

-Nương à! Thầy chỉ còn ở đây có hai ngày. Chủ nhật này bay về Đài Loan rồi.

-Nhưng ổng gặp mình có chuyện gì vậy?

-Ổng khen bạn nói tiếng Quan Thoại quá giỏi, lại tinh thông Phật pháp nên đã truyền đạt hết tất cả những gì ổng muốn nói. Ngoài việc muốn thăm tịnh thất, sư phụ còn muốn đàm đạo với người đẹp về Đạo và Đời.

-Mình chỉ muốn sống ẩn dật.

-Đừng bỏ lỡ cơ hội. Vì thầy là một hành giả nổi tiếng thế giới, có thể sánh ngang với Osho của Ấn Độ hoặc Krishnamurti. Mình cho rằng cuộc gặp sẽ rất thú vị.

Im lặng. Chỉ nghe tiếng gió giữa lưng đèo bay qua thung lũng.

-Thôi được, nhưng mình không muốn tiếp khách trên núi. Ngày mai gặp nhau ở Đà Nẵng nhé?

*

Trước đây, Bạch Nương có chú ý đến Osho với biệt danh “Đạo sư tình dục” và câu nói nổi tiếng: “Tôn giáo là một nghệ thuật dạy cách tận hương cuộc sống. Bất kỳ tôn giáo nào xem đời là đau khổ đều không phải tôn giáo”. Ông còn tự coi mình là “Mặt trời khuyến khích hoa nở.” Cô không thích những kiểu đại ngôn như thế.

Nếu nhà sư Đài Loan này là một kiểu như Osho thì mình sẽ phải ứng xử thế nào?

*

Nơi gặp là một biệt thự sang trọng có vườn cây khá rộng ở trung tâm Đà Nẵng. Ba người ngồi quanh chiếc bàn đá đặt dưới tàn cây giữa vườn hoa.

Họ uống trà, nói mấy câu xã giao một lúc thì chị bạn xin rút lui để đi mua những vật dụng cần thiết cho chuyến về của đạo sư.

-Cô đã đến Đài Loan bao giờ chưa?

-Dạ chưa. Nghe nói ở đó đàn ông thích ăn trầu.

-Đúng vậy. Nhưng tôi thì không. Nếu tôi mời cô đi Đài Loan thăm đạo tràng của tôi thì cô có đồng ý không?

-Tôi rất hân hạnh. Nhưng…

-Kẹt chuyện ăn chay phải không?

-Dạ. Bởi vì chung quanh các thầy, các ni sư đều ăn mặn mà mình ăn chay thì chướng quá.

-Tôi nghĩ không nhất thiết phải ăn chay trường. Cô cho rằng ăn chay trường là không sát sinh sao?

-Dạ.

-Vậy khi đánh răng, khi rửa tay, cô có sát sinh không?

-Nhưng đó chỉ là những vi khuẩn.

-Vi khuẩn cũng là chúng sinh. Trong kinh sách có câu: ”Phật kiến nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng.” Phật đã nhìn thấy tám mươi bốn ngàn con vi khuẩn trong một bát nước. Nhưng ngài vẫn uống.

-Dạ.

-Vậy “sát sinh” là điều rất tự nhiên trong cuộc sống hàng ngày.

Bạch Nương nhìn thẳng vào mắt thiền sư.

-Nhưng thưa thầy, vi khuẩn chỉ là một dạng sống rất thô sơ, không có ý thức về sinh và diệt. Chúng gần như chỉ là những tế bào. Những phân tử. Chúng không đau khổ. Còn những sinh vật cao cấp hơn như chim, cá, heo, gà… và con người thì hoàn toàn khác.

-Thực ra những “sinh vật cao cấp” mà cô vừa nói cũng chỉ là sự hội tụ của các tế bào. Mà tế bào lại có nguồn gốc từ Tứ Đại, tức là Nước, Lửa, Khí và Đất. Bốn yếu tố đó kết hợp nhau, hình thành các chuỗi DNA đầu tiên của sự sống. Và cái chết. Ý tôi muốn nói về quá trình sinh, lão, bệnh, tử. Về cặp phạm trù Sắc-Không.

-Vậy còn ý thức thì sao? Bản chất của ý thức là gì?

Thiền sư im lặng. Ông bưng tách trà uống rất chậm, không phải để suy nghĩ về câu hỏi khó của Bạch Nương nhưng là để nhâm nhi những gì ông sắp nói.

-Vô minh duyên Hành. Hành duyên Thức… có phải vậy không?

-Dạ.

-Vậy thì ý thức cũng bắt nguồn từ Vô minh. Đó là điều mà Đức Phật đã dạy chúng ta về Thập Nhị Nhân Duyên.

Không phải là Bạch Nương chưa từng nghĩ đến điều đó, vì thế cô không hề lúng túng.

-Bạch thầy. Bất luận bản chất của ý thức là gì thì từ khi chúng sinh có ý thức là bắt đầu có ái dục, có tham, sân, si. Có khổ não. Con người có thể tu dưỡng để diệt trừ tham sân si, nhưng loài vật thì không. Loài vật cũng có đủ mọi tình cảm như con người. Cũng tham sống, sợ chết. Nhưng chúng không biết tu tập để hóa giải những thứ ấy và vì thế khi chúng ta giết động vật để ăn thịt là chúng ta tạo nghiệp, chúng ta nhấn chìm chúng sinh vào bể khổ. Tôi không thể chứng kiến nỗi khiếp hãi của một sinh vật khi bị đem ra chặt đầu lột da hay thọc huyết. Đó không phải là hành động của con người, mà là của dã thú.

-Thực tế, con người cũng là dã thú, cũng sống bằng thân xác kẻ khác. Có nghĩa con người cũng là ký sinh trùng. Cô hãy trả lời tôi xem: có cái gì trong vũ trụ bao la này mà không săn mồi, không sống ký sinh?

Đó là một câu hỏi khó. Bạch Nương im lặng rất lâu. Cho đến khi nhà sư tiếp lời:

-Tôi lấy ví dụ như trái đất mà chúng ta đang sống. Nếu đem so với vũ trụ vô cùng vô tận, thì nó cũng chỉ là một “ký sinh trùng”

-Trái đất là con ký sinh trùng sao?

-Đúng vậy. Bởi vì nó không thể sống nếu không có mặt trời. Nó sống bám vào mặt trời giống như con rận sống bám vào da người. Cô thử tưởng tượng một ngày nào đó mặt trời vụt tắt. Những khu rừng sẽ chết. Mặt đất băng giá. Con người và tất cả mọi sinh vật kể cả vi trùng sẽ bị hủy diệt. Trái đất chết. Những hành tinh khác cũng chết. Cả thái dương hệ đều chết.

Vì vậy sự sống chỉ là một chuỗi những “ký sinh”. Có những ký sinh thầm lặng như các hành tinh sống nhờ vào ánh sáng mặt trời, cây cỏ sống nhờ vào nắng, không khí, đất và nước… nhưng cũng có những “ký sinh” quyết liệt, đấu đá, giết chóc… để chiếm hữu thân xác kẻ khác mà sống. Cuộc quyết đấu ấy người ta gọi là gì cô có biết không?

-Dạ biết. Đó là săn mồi.

-Đúng vậy. Bản năng đó không chỉ có ở con người mà còn ở trong tất cả mọi sinh vật kể cả vi trùng. Kể cả các loài thực vật.

Săn mồi trở thành thuộc tính của vạn vật. Săn mồi là một quy luật, một động lực tất yếu của huỷ diệt và tiến hoá.

Con người – bất chấp trí tuệ siêu việt và những cảm quan tinh tế của nó – cũng chỉ là con mồi trong quy trình tiến hoá đó.

Mèo săn chim trong khi chim đang săn những chú sâu trong kẽ lá. Sâu thì săn những chồi non, chồi non thì tìm dưỡng chất từ đất. Và đất cũng đang tìm thức ăn từ xác lá, xác sinh vật. Xác sinh vật lại là nguồn sống cho dòi bọ, cho vi trùng. Và vi trùng lại là kẻ săn mồi truyền kiếp và nguy hiểm nhất của loài người…

Sự sống trên mặt đất này hoá ra lại chỉ là cuộc săn mồi bất tận, chòng chéo nhau giữa muôn loài.

Kẻ săn mồi có thể là những tên quái vật như Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot… có thể là hổ báo, cá mập, kền kền… nhưng cũng có khi chỉ là đứa trẻ ngây thơ như một chú mèo con.

Cuộc săn mồi có thể là một trận chiến khốc liệt, nhiều bom đạn và xác người, có thể đẫm máu như một cuộc vây bắt của bầy linh cẩu… nhưng cũng có thể chỉ là trò nghịch ngợm.

Cuộc săn mồi có thể có mục đích to lớn: thoả mãn tham vọng chiếm hữu lãnh thổ, tài nguyên, quyền lực, nhưng nhiều khi cũng chỉ là giải quyết cơn đói, hay chỉ là trò tiêu khiển.

Bạch Nương hỏi:

-Vậy thì con người chết để giải quyết “cơn đói” của ai? Hay chỉ chết vì một trò tiêu khiển?

-Tôi nghĩ con người chết vì cả hai nguyên nhân đó. Chết bởi chiến tranh là chết trong cơn đói quyền lực và tham vọng, còn chết già, chết bệnh là chết vì trò tiêu khiển.

Bạch Nương hơi khựng lại, nhíu mày.

-Nhưng đó là trò tiêu khiển của ai?

-Của Tạo Hóa. Tạo hoá giống như đứa trẻ nghịch ngợm, dùng đất sét để nặn ra con người, chơi đùa một lúc rồi xoá đi để nặn ra con người khác. Đó là trò tiêu khiển. Nhưng sai lầm lớn nhất của tạo hoá là đã thổi vào cục đất sét ấy một linh hồn, với trí tuệ, cảm xúc nhạy bén và ý thức sâu thẳm về lẽ tử sinh của thân phận nó.

Từ ý thức đó đẻ ra triết học và tôn giáo, rồi nào là văn học, nghệ thuật… tựu trung cũng chỉ để lý giải một điều rất đơn giản, đầy bản năng: đó là sự xuất hiện phi lý, lố bịch và tàn nhẫn của chúng sinh trên hành tinh này.

Bạch Nương ôm mặt. Cô rời ghế đá, đi về phía khóm hoa lài đang nở sáng rực cả một góc vườn. Cô kêu lên. Lời thì thầm như tiếng khóc:

-Tạo hoá ơi! Hóa ra loài người chẳng là gì cả. Chẳng có gì cao quý, thiêng liêng cả. Chỉ là sự kết hợp ngẫu nhiên của những hạt vật chất đơn lẻ.

Và cả chúng sinh nữa! Chúng sinh xuất hiện từ vô minh, lớn lên trong lầm than, đói rét, giành giựt, giết chóc nhau, ăn thịt nhau để sống sót. Trong cát bụi, trong bùn lầy, trong hang ổ tối tăm, rét mướt… để rồi cuối cùng số phận của nó sẽ được quyết định bởi những quy luật vật chất máy móc, vô cảm và vô nhân tính (impersonal).

Tạo hóa ơi! Người không thấy tội nghiệp cho một sinh vật bé nhỏ, mong manh là tôi đây sao? Người không thấy đó là điều tàn nhẫn và phi lý sao?

12.JULIA TÌM MẸ

Lúc ra đi, Nguyễn Sơn ngồi trên chiếc ghe nhỏ chèo bằng tay, từ trong hốc đá âm thầm ra khơi giữa đêm đen kịt. Trở về lần thứ nhất, anh bay trên một chiếc Airbus 320.

Cái am nhỏ của Bạch Nương biến thành một ngôi chùa đẹp đẽ giữa mây núi chập chùng.

Lần ấy chàng phi công VNCH trở lại Hoa Kỳ với một tiểu ni mười tuổi. Đó là Lâm Oanh, cô bé trôi dạt trên biển ngày nào trong chiếc thau nhựa màu đỏ.

Lần này Nguyễn Sơn về Việt Nam cùng một thiếu nữ mặc quần jeans bạc màu, sờn rách và một chiếc box jacket đen khoác ngoài cái áo thun màu hạt dẻ.

Bạch Nương đón hai cha con ngay dưới chân núi.

-Sao chị lại xuống tận đây? Tôi biết đường lên chùa mà.

Bạch Nương cười, không để ý đến người đàn ông, chỉ nhìn cô thiếu nữ.

-Lâm Oanh phải không, con?

Cô gái tháo mắt kính đen cất vô túi nhưng vẫn đứng yên một chỗ. Im lặng. Nguyễn Sơn nhắc.

-Chào bác Nương đi con!

Nhưng cô gái vẫn không nói gì. Bạch Nương dẫn khách lên chùa. Julia đi giữa, ngay sau lưng Bạch Nương. Khi họ bước vô cái sân rộng đầy cỏ và hoa dại thì Julia bước nhanh tới, ôm Bạch Nương từ phía sau và khóc nức nở.

Người đàn bà xoay người lại, gục đầu vào vai Julia. Cô gái kêu lên:

-Sư phụ! Con nhớ sư phụ lắm. Từ lâu con đã chờ đợi ngày này.

Bà ni sư già từ sau bếp chạy ra, cũng ôm Julia và khóc.

-Bà đã sửa soạn bữa cơm chay, nhưng không biết con có ăn chay được không.

Nguyễn Sơn nói:

-Ở bên Mỹ cháu vẫn ăn chay trường. Cháu không ăn mặn được.

Mọi người ngồi lại bàn ăn. Nguyễn Sơn hỏi:

-Phan Vũ đâu, cái anh nhà văn ấy?

-Anh ấy đang ở Sài Gòn. Khi bé Lâm Oanh lên năm tuổi anh Vũ có ra đây tìm mẹ cháu theo địa chỉ ghi trong bức thư cô ấy để lại. Chúng tôi dẫn Lâm Oanh cùng đi Đà Nẵng tìm nhưng người ta nói mẹ cháu đã đi tu ở chùa XL, nhưng khi chúng tôi lên chùa thì thầy trụ trì ở đó nói cô ấy chỉ ở chùa có hơn một năm rồi hoàn tục. Không biết đi đâu.

-Thầy trụ trì ấy bây giờ có còn ở đó không?

-Đã 15 năm rồi. Không biết thế nào.

Nguyễn Sơn:

-Chị là người tu hành, tôi nghĩ chị vẫn thường lui tới chùa XL chứ?

-Không.

-Tại sao?

-Vì có nhiều tin đồn không hay về ngôi chùa ấy. Sư trụ trì thì có lối sống khác thường, Hành tung khó hiểu. Và hình như là rất giàu có. Xe Lexus. Phòng riêng đầy đủ tiện nghi hiện đại. Và mặc dù ông thuộc phái Đại Thừa nhưng lại ăn mặn. Thỉnh thoảng ra ngoài và trở về giữa khuya, nồng nặc mùi rượu. Có lúc nghe nói đi họp hành gì đó cả tuần mới về.

Mọi người đều im lặng. Julia cắm cúi ăn. Và ăn rất chậm. Đôi mắt buồn. Cô gái ghé tai bố Sơn nói thầm thì gì đó bằng tiếng Anh. Giọt nước mắt ứa ra, lăn xuống má như hạt sương long lanh. Rồi cô đặt đũa xuống bàn, dùng khăn giấy thấm nước mắt.

-Dù có trở ngại cỡ nào con cũng sẽ phải tìm ra mẹ con. Tội nghiệp mẹ. Không biết đã trôi giạt phương nào. Còn sống hay đã chết.

Julia day sang bố Sơn, hỏi:

-Ngày mai mình đến chùa XL bố nhé?

-Nhưng mẹ con đã rời chùa mười mấy năm rồi. Liệu có ai còn nhớ đến mẹ con không.

-Có. Ông sư ấy. Con muốn gặp. Nếu ông ta vẫn còn ở đó.

13.THẦY TRỤ TRÌ

Nhà sư bấm nút Interphone.

-Dạ, sư phụ gọi con.

-Chuẩn bị xe cho thầy.

Ông gác máy, rút cái iphone để dưới gối.

-Nhạc sỹ đó hả? Hôm trước con đưa cho thầy mấy cái đĩa DVD, đó là nhạc gì vậy?

-Dạ, nhạc nhẹ các nước.

-Nghe như mèo kêu. Thầy muốn đổi nhạc khác. Chừng một tiếng nữa thầy đi Đà Nẵng lấy. Được không?

-Nhưng thầy muốn nhạc gì?

-Boléro.

-Dạ, nhạc boléro có nhiều loại lắm. Thầy thích loại nào?

-Loại nào? Thầy tưởng chỉ có một thứ thôi chứ.

-Dạ, nhiều thứ  lắm. Chẳng hạn như: Boléro Rumba, Boléro Flamenco, Boléro Begynie.

-Mày nói tùm lum tao thua. Hiện giờ có bài nào nổi tiếng nhất? Nhưng mà nó có phải là dân ca Nam Bộ không?

-Dạ, không. Nó phát xuất từ Cuba. Cha đẻ của nó là Jose Pepe Sanchez. Và bài nổi tiếng thế giới là Bésame Mucho do một nhạc sỹ dương cầm bậc thầy của Mexico là Consuelo Velázquez sáng tác.

-Nhưng tiếng Tây nhiều quá tao không hiểu đâu. Tao nghe trong mấy quán cà phê, Chế Linh, Duy Khánh hát tiếng Việt mùi lắm mà, có khi giống dân ca Nam Bộ.

-Dạ khi boléro du nhập sang Việt Nam thì cũng có pha trộn chút ít cho nó mùi mẫn đó sư phụ.

-Vậy cứ chọn cho thầy mấy bài đó, chẳng hạn như: Cô Hàng Xóm, Sầu Tím Thiệp Hồng, Gõ Cửa Trái Tim, Giọt Lệ Đài Trang, Đập Vỡ Cây Đàn…

-Nhưng mà… thầy là người tu hành mà nghe mấy bài đó trên xe con, có hợp không?

Nhà sư bật cười ha hả.

-Mày nhậu với tao hoài, sao nói cái kiểu cà khịa vậy?

-Dạ, con chỉ lo vậy thôi.

-Lo cái con khỉ. Tao đã thành chánh quả rồi, sao còn chấp mấy cái thứ đó. Tao đã bước qua Ngũ Giới.

Nhạc sỹ cười hic.. hic..

-Sao mày cười?

-Con nghĩ đến số 35. Người ta nói đó là con dê nhưng theo Ngũ Giới thì giới thứ 3 là tà dâm, giới thứ 5 là uống rượu, hai thứ đó ráp lại còn “ác chiến” hơn con dê nữa.

-Mày chọc quê tao hả?

-Dạ, con không dám. Chỉ chợt nghĩ, vậy thôi.

-Thôi, dẹp ba cái chuyện đó đi. Một tiếng đồng hồ nữa tao sẽ có mặt ở Đà Nẵng.

Thầy trụ trì chuẩn bị gọi tài xế thì có tiếng gõ cửa.

-Gì đó?

Tiếng của bà lão quét chùa.

-Bạch thầy. Có khách.

-Ai vậy?

-Dạ, cô cư sỹ Bạch Nương.

Ngày sinh, có thể quên. Ông cố nội thầy, thầy có thể quên. Nhưng cái tên Bạch Nương thì không bao giờ.

-Mời vào phòng khách ở chánh điện.

Bà lão quét chùa lui ra. Nhà sư thay áo tràng.

14.BÀ LÃO BƯNG TRÀ

Thầy trụ trì bước vào phòng khách  một cách chậm rãi, nhẹ nhàng, từ tốn.

-A Di Đà Phật!

Bạch Nương liền nhập vai MC, đưa tay về phía Nguyễn Sơn:

-Đây là anh Sơn, Việt kiều Mỹ. Còn đây là bé Julia.

Bà vãi già đem trà đến, chào mọi người rồi lui ra. Julia cúi người thật thấp.

-Con chào sư phụ.

-Bạch thầy, cháu là con gái tôi. Sơn nói. Năm nay cháu 20 tuổi. Cháu vừa…

Bạch Nương cướp “diễn đàn” vì biết anh chàng Việt kiều này sắp nói lòng vòng trong khi Julia đang sốt ruột.

-Dạ, cháu vừa về Việt Nam là đòi lên chùa gặp sư phụ liền.

-Có chuyện gấp vậy sao?

-Julia biết, trước đây mẹ cháu từng tu ở chùa này nên muốn xin thỉnh giáo sư phụ.

Nhà sư điếng người. Giống như con mèo đang ngủ bỗng có người búng vô hòn dái. Nhưng thay vì la: “Help! Help!” thì thầy lại gọi tên ông Phật:

-A Di Đà Phật! Đã mười mấy năm qua, cửa thiền là nơi lui tới tu tập của nhiều người. Thầy không nhớ hết.

-Nhưng đó là một ni cô xinh đẹp, từ thành phố đến. Hình như là trường hợp duy nhất.

-Dám hỏi, quý đạo hữu đó tên gì?

-Lâm Yến.

-Lâm Yến à? Tôi nhớ rồi. Nhưng đạo hữu ấy hoàn tục đã hơn hai mươi năm. Ra đi cũng bất ngờ. Trong chùa không ai biết. Sao tôi biết được?

Câu nói của nhà sư khiến Bạch Nương càng nghi ngờ. Nhưng chị quyết định không tiếp tục “búng dái” nữa. Chị cho thầy một thìa mật ong.

-Năm đó thầy chừng 30 tuổi, rất phong độ. Có một lần đi lễ chùa, gặp thầy, con cũng sửng sốt. Con nghĩ là Lâm Yến cũng “sửng sốt” như con, nên mới lên chùa quy y. Người ta nói Lâm Yến là đệ tử ruột của thầy mà. Sao khi cô ấy ra đi mà không báo cho thầy biết? Ừ, mà sao cô ấy lại phải hoàn tục?

Nhà sư cười hề hề, mặt mày tươi tỉnh. Hạ bộ chắc đã an lạc nên sư phụ mới hoan hỉ như vậy. Thầy uống một ngụm trà sen.

-Sao cô không đi tìm Lâm Yến mà hỏi? Tôi là người tu hành. Đã xả bỏ mọi thị phi ở đời. Ngoài năm mươi rồi. Cái thân này còn không phải của mình huống chi là chuyện thiên hạ.

Bạch Nương định nói nhưng điện thoại của thầy đổ chuông.

-A lô! À, con chờ thầy một chút. Thầy đang bận khách. Con cứ đưa xe ra cổng đi.

Nhà sư cất điện thoại vào túi. Bạch Nương hỏi:

-Nhưng trong một thời gian dài như vậy, Lâm Yến không liên lạc với thầy sao? Một bức thư chẳng hạn?

Nhà sư lắc đầu, ngóng nhìn ra sân.

Julia ngồi nghe chăm chú. Nhưng vì vốn từ vựng tiếng Việt của cô quá ít, nhất là những từ thuộc về Phật pháp như “xả bỏ”, “an lạc” “hoàn tục”, hoan hỉ” “thị phi”… thì cô mù tịt.

Đã không hiểu hết nội dung câu chuyện, lại thấy nhà sư lúc nào cũng từ chối cung cấp thông tin nên cô rất nản. Cô ghé tai bố Sơn:

-Con muốn đi restroom.

-Ra phía sau, có người sẽ chỉ cho con.

Julia đứng dậy, bước ra ngoài. Cô gặp bà lão bưng trà lúc nãy. Nhưng bà này lại không hiểu restroom là gì nên hai bên ra dấu một hồi. Cuối cùng bà nói:

-Lúc nãy vào châm thêm trà, bà có nghe mọi người nói về Lâm Yến. Bộ cháu đến đây tìm Lâm Yến hả?

Câu hỏi làm Julia bừng nở như một đóa hồng. Cô ôm chầm lấy bà lão.

-Yes, yes. Dạ. Cháu là con của mẹ Lâm Yến. Bà biết mẹ cháu sao?

Bà lão liếc nhìn chung quanh.

-Im lặng! Bà biết! Nhưng không thể nói ở đây được.

-Cháu hiểu rồi. Bà có thể đi Đà Nẵng được không? Cháu và bố cháu rất cần information về mẹ cháu. Gia đình cháu sẽ rất  biết ơn bà.

Julia viết mấy dòng tiếng Việt trên mẩu giấy kẹo cao su kèm số điện thoại của bố.

-Hãy liên lạc qua số điện thoại này. Bây giờ bà chỉ cho cháu nơi ở trước đây của mẹ cháu tại chùa này. Cái căn phòng, cái room, chỗ ngủ, hay cái giường cũng được. Của mẹ cháu.

Bà lão chỉ tay về phía căn nhà nhỏ rồi bỏ đi ngay.

*

Căn nhà đó ở phía sau chùa, cách một vườn rau. Nó đơn độc nhưng trông rất tươm tất, sạch sẽ.

Julia ướm thử tay nắm cửa, thấy khóa bên trong. Các cửa sổ đều đóng kín. Cô gõ ba tiến nhẹ và chờ, nhưng không thấy động tĩnh, bèn đi vòng ra phía sau. Tường vôi kín mít, dưới chân tường có những đống củi khô rải rác.

Bức tường mới được sơn lại, trắng toát, lạnh lẽo. Ẩn hiện sau tán lá của một cành cây mọc sát tường là một lỗ thông gió hình vuông rộng bằng gang tay. Julia trèo lên một gốc cây đã bị cưa cụt. Nhờ cô cao 1,70 mét nên có thể nhìn qua lỗ thông gió dễ dàng.

Phòng sáng lờ mờ nhưng cũng đủ để Julia nhìn thấy một thiếu nữ trẻ trạc hăm ba hăm bốn tuổi gần như trần truồng đang nằm trên chiếc giường gỗ hẹp, lưng tựa lên những chiếc gối vải hoa sặc sỡ kê sát thành giường.

Cô gái chỉ mặc quần lót và áo ngực màu hồng, tóc dài và rối. Cạnh giường là một cái bàn nhỏ kê một bình thủy tinh to bằng chai rượu, nhưng trên nắp chai lại có cắm hai cái ống. Một cái thì cong như ống hút, cái kia nối với một quả cầu bằng thủy tinh, bên trong có đựng một chất nước gì màu đen.

Cô gái bật quẹt ga và đưa ngọn lửa vào dưới đáy cái quả cầu ấy. Ngọn lửa dài, sáng xanh, tỏa đều dưới đáy quả cầu nhỏ như trái quýt. Lát sau khói trắng tỏa ra từ trong quả cầu ấy và được dẫn theo ống thủy tinh, đi vào trong cái chai có chứa ít nước dưới đáy.

Khi khói trắng đã chứa đầy trong chai thì cô gái ném cái quẹt ga ra bàn rồi kê miệng vào ống hút. Chỉ nghe tiếng rột rột sôi lên trong lòng chai một lúc lâu, rồi cô gái ngã ngửa ra giường, giang thẳng hai tay hai chân và nhả ra một luồng khói trằng như sữa. Khói đùn lên từng lọn, từng lọn rồi tỏa khắp căn phòng.

Có tiếng thạch sùng kêu và một đàn không biết từ đâu, nối đuôi nhau bò nhanh tới cái lỗ thông gió, chui vào phòng. Julia giật mình, nhảy xuống khỏi gốc cây, bước nhanh ra vườn rau. Rất may không có ai ở đó. Cô đi bọc ra phía trước, trở lại phòng khách.

Lúc ấy mọi người đang từ giã nhau. Sư trụ trì nói:

-Tài xế của tôi đến rồi. Rất tiếc, tôi có việc phải đi. Hẹn gặp trong dịp khác. Xin lỗi vì đã không cung cấp được chút manh mối gì cho quý vị.

Người tài xế trao chiếc cặp da cho nhà sư rồi đi thẳng ra sân, chỗ có chiếc Lexus đang đậu.

15. BỨC THƯ CỦA LÂM YẾN

Khi mọi người bước vào quán thì đã thấy bà lão ngồi sẵn ở đó. Câu hỏi đầu tiên là của Julia:

-Mẹ cháu hiện giờ đang ở đâu?

-Sài Gòn.

-Sài Gòn? Là ở đâu vậy bố?

-Cách Đà Nẵng 1.000 km, tức là hơn 600 miles về hướng Nam. Đó là thành phố lớn nhất Việt Nam.

Bạch Nương hỏi:

-Bà có biết tại sao cô ấy lại vào Sài Gòn không?

-Không. Nhưng cách đây mấy năm tôi có nhận được một bức thư của Lâm Yến gởi từ Sài Gòn. Cô ấy nói mình bị lừa và không gỡ ra được. Tôi không biết cách nào giúp cô nên đưa bức thư cho thầy trụ trì, may ra ông ấy có cách, vì ông rất quyền lực.

-Quyền lực như thế nào? Nguyễn Sơn hỏi.

-Tôi không rõ, nhưng thỉnh thoảng có những ông lớn đến viếng thầy và họ có vẻ “ngang cơ” với nhau. Họ có cả một đám cận vệ. Lần khác có chiếc trực thăng đậu xuống sân chùa. Đó là lần viếng thăm của vương gia.

-Vương gia là gì? Julia hỏi.

Bố Sơn giải thích.

-He’s almost a king.

Nhưng Julia không quan tâm đến chi tiết ấy.

Cô hỏi.

-Minh có thể đi Sài Gòn được không bố?

-Dĩ nhiên là được. Nhưng phải hỏi xem sau khi đọc thư của mẹ con, thầy trụ trì đã làm gì.

Bà Lão:

-Đọc xong thư, sư phụ nói: Cô ta đã hoàn tục và sống nơi khác. Tôi hết trách nhiệm. Và cũng không thể giải quyết được những chuyện trong giới giang hồ. Rồi ông đuổi tôi ra khỏi phòng. Lúc ấy tôi rất uất. Tôi muốn nói rằng cả cái chùa này ai cũng biết là ông đã đuổi Lâm Yến ra khỏi chùa khi cô ấy thú nhận mình có thai được 3 tháng. Và đó là con của ông ta.

-Sau đó Lâm Yến sống như thế nào?

-Không ai biết. Cô ấy gần như biệt tích.

Julia ôm mặt khóc. Rồi cô rúc vào ngực bố.

Nguyễn Sơn nói:

-Không ai biết Lâm Yến đã sống ở đâu và như thế nào để chờ đứa con trong bụng mình ra đời. Nhưng chắc chắn là cô ấy quá nghèo không đủ sức nuôi con và không chịu đựng nổi những ruồng bỏ của gia đình, những thị phi của xã hội nên đành phải… Tôi đã kể cho Julia nghe tất cả những gì đã diễn ra từ khi tôi vớt được bé trên biển… và sau đó đưa sang Mỹ. Đó là một câu chuyện rất dài.

Bạch Nương nói:

-Julia, lúc ấy gọi theo tên của mẹ đặt là Lâm Oanh, đã sống với tôi ở trên núi mười năm. Và chúng tôi đã một lần đi tìm Lâm Yến nhưng không có tin tức gì. Chuyến này chắc phải đi Sài Gòn. Trong thư Yến gởi cho bác, có ghi địa chỉ của cô ấy không?

Bà Lão móc trong túi áo bà ba ra một cái phong bì.

-Cô hãy giữ lấy đi. Bà lão nói. Khi vào Sài Gòn sẽ cần đến nó.

16. THEO DẤU LÂM YẾN

Tôi lái chiếc Fiat Siena cổ lỗ sĩ lên phi trường Tân Sơn Nhất đón Bạch Nương và cha con Lâm Oanh. Ra khỏi phi trường thì đã hơn 11 giờ, tôi mời mọi người đi ăn trưa nhưng Julia nói:

-Bác ơi, mình chạy thẳng tới địa chị của mẹ con đi, bác.

-Nhưng bức thư mẹ con viết đã hơn 10 năm, bây giờ chưa chắc bà còn ở đó.

-Nếu vậy thì làm sao?

-Mình sẽ phăng lần ra các manh mối.

Bố Sơn dịch ra tiếng Anh:

-We’ll look for the clues.

Tôi tạt vô một tiệm KFC. Nhưng khi bước vào, mới nhớ Bạch Nương và Julia đều ăn chay trường, định quay ra thì Julia nói:

-No sweat! Con ăn french fries cũng được.

Mọi người đều biết Julia nóng ruột nên ăn uống vội vàng rồi ra xe. Nhưng khi đến địa phận quận Bình Thạnh thì gặp nước triều lên ngập đường.

-Sao không có mưa mà ngập lụt vậy bác? Julia hỏi.

-Không phải lụt. Đó là triều cường. It’s the tide.

Tôi đậu xe trên lề đường và bảo mọi người xuống xe lội bộ vô trong hẻm. Julia cởi giày đeo lên cổ, xắn quần.

Đến nhà, gặp một bà già đang dùng cái ca múc nước trên nền nhà đổ vô cái “xô” nhựa. Bà nói:

-Đúng. Lâm Yến từng ở đây. Nhưng đã dọn đi lâu rồi. Lâu lắm rồi. Mấy người là bà con hả?

-Dạ. Bạch Nương nói.

-Sao đi tìm cổ trễ quá vậy? Biết bao nhiêu chuyện đã xảy ra. Biết bao nhiêu nước mắt. Bộ mấy người ở nước ngoài về hả? Thấy ăn bận hơi khác.

-Dạ. Vậy xin hỏi, lúc Lâm Yến ở đây, cổ làm gì?

-Nó đi bán cà phê. Hay là mấy người lại đó hỏi coi.

Theo lời chỉ dẫn, chúng tôi đến quán Sao Đêm ở quận Ba. Một quán cà phê lớn, sang trọng. Mọi người chọn cái bàn rộng kê sát cửa sổ. Tôi và Bạch Nương cùng đến quầy tiếp tân. Ở đó toàn những cô gái trẻ ăn mặc rất thời trang. Không ai biết Lâm Yến.

Đi tìm một người đàn bà 45 tuổi trong một quán cà phê toàn gái xinh mơn mởn, đúng là chuyện hơi điên khùng. Julia buồn thiu. Cô bé không hề ngó ngàng gì tới ly kem chocolat trước mặt.

Bạch Nương nói:

-Để tôi đi hỏi chủ quán.

Chủ quán là một người đàn ông ngoài năm mươi. Ông ta mở một cuốn sổ lớn, dày cộm, lưu giữ lý lịch của nhân viên.

-Tôi nhớ cô này. Vì cổ hay khóc. Ông ta chỉ vào một tấm ảnh bốn sáu gắn trên trang giấy.

Nhưng trong bốn người đi tìm, chưa ai từng gặp mặt Lâm Yến, vì thế Bạch Nương chỉ đọc lý lịch. Thấy địa chỉ ở Đà Nẵng trùng khớp với mảnh giấy mà Julia đang giữ.

-Dạ đúng. Bạch Nương nói. Cô ấy là em họ của tôi. Ông có biết hiện giờ cổ ở đâu không?

Người đàn ông cúi đầu, nhắm mắt lại.

-Nói ra ngại quá. Bộ gia đình không ai biết gì sao? Cổ bị bắt vì buôn bán ma túy.

-Vậy là bây giờ đang ở trong tù?

-Tôi nghĩ là đã mãn hạn tù rồi. Kêu án bảy năm. Nhưng đã hơn bảy năm rồi.

-Ông có biết giờ này cổ ở đâu không? Vì không thấy cổ về nhà.

Chủ quán lại nhắm mắt. Im lặng.

-Vậy ông có biết cổ bị giam ở trại nào không?

-Nghe mấy người cùng bị dính trong vụ đó nói là trại Bố Lá. Tỉnh Bình Dương. Hay là cô thử lên Bố Lá hỏi coi.

-Nhưng ở đó họ cũng phải trả về gia đình ở Đà Nẵng. Mà gia đình thì không ai biết gì cả.

-Tôi khuyên cô cứ lên trại Bố Lá. Bởi vì khi mãn hạn tù chắc chắn sẽ có người đem sổ thăm nuôi đến đón về. Nếu biết người đón về là ai, cô sẽ tìm ra manh mối.

Bạch Nương thở ra. Tình huống thật phức tạp, nhưng dù sao vẫn có được một đầu mối quan trọng. Chị nói cám ơn và trở lại bàn.

Những cặp mắt đang mở lớn. Chờ đợi.

17. CÔNG TRÌNH MƯỜI NGÀN TỶ

Chiếc trực thăng của Vương Gia đáp xuống sân chùa. Lần trước chỉ một mình thượng tọa Huyền Minh, trụ trì chùa XL ra đón, lần này ngài huy động toàn thể tăng ni trong chùa đứng xếp thành hai hàng, tay cầm Phật kỳ và quốc kỳ vẫy vẫy, bắt chước phim cổ trang Trung Quốc, đồng thanh:

-Vương Gia vạn tuế, vạn vạn tuế!

Vương gia mặt mày hồng hào, tươi cười bước xuống sân, theo sau là hai cận vệ.

Thầy trụ trì đi cạnh Vương Gia, duyệt qua hai hàng tăng ni trông rất lẫm liệt. Tuy nhiên nếu tinh ý sẽ thấy thầy hơi tụt phía sau nửa bước để tỏ lòng tôn kính.

Nhưng khi hai người đã vào trong chánh điện, ngồi ngay trước bàn thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, khi các cận vệ và tăng ni lui ra hết, thì hai người có vẻ thân mật hơn. Cách xưng hô cũng khác.

-Cậu làm cái trò gì giống như phường chèo vậy?

-Dạ… vì đây là đại sự mà. Thưa anh.

-Đại sự cái con khỉ! Đây đâu phải lần đầu tiên ta xây một công trình mười ngàn tỷ. Cậu biết cái này là cái thứ mấy rồi không?

-Dạ… thưa anh, không rõ lắm. Hình như đã có các chùa Bái Đính, Yên Tử, Tam Chúc, Ba Vàng. Chắc cái này là cái thứ năm.

-Hoang đường! Lần này ta không xây chùa. Ta sẽ xây một cái Tử cấm thành, đại loại như cố cung Bắc Kinh.

-Tầm nhìn của anh thật là…

Có tiếng gõ cửa.

-Vào đi! Vương Gia nói lớn.

Sư trụ trì vội ra mở cửa. Hai người đàn ông trạc bốn mươi tuổi đều mặc côm-lê đen, xách cặp da bước vào. Vương Gia giới thiệu:

-Người để ria mép là kiến trúc sư Ngân Lượng. Cậu ấy sẽ là Tổng công trình sư của công trình này. Còn người để tóc dài là Giáo sư Vô Thường, Tiến sỹ Phật học kiêm nhà phong thủy nổi tiếng của Bắc Hà.

Nhà sư đứng dậy, chắp tay xá hai vị khách quý rồi mời dùng trà. Kiến trúc sư Ngân Lượng mở cặp da lấy ra tấm bản đồ lớn, trải lên mặt bàn.

-Đây là chỗ chúng ta đang ngồi, tức là ngôi chùa này. Nó quá nhỏ và quá đơn sơ so với thế đất rất hùng vỹ, có núi đồi ba phía, phía trước là biển rộng. Vì vậy việc đầu tiên là phải san lấp mặt bằng, có nghĩa là phải… đập bỏ ngôi chùa này.

Nhà sư sửng sốt.

-Đập bỏ? Như vậy sẽ tạo cú sốc cho chúng tăng và phật tử.

-Thầy sai rồi. Chẳng những không sốc mà mọi người sẽ vô cùng hoan hỉ. Vì chúng ta sẽ xây một ngôi chùa hoành tráng, lộng lẫy gấp mười lần ngôi chùa hiện nay.

-Nhưng lúc nãy Vương Gia nói…

Vương Gia ngắt lời:

-Ta nói là sẽ xây một Tử cấm thành, đó là nói trong lúc cao hứng. Nhưng hình dáng, đường nét, hoa văn, họa tiết… thì là một ngôi chùa hoàn chỉnh với đầy đủ chánh điện, tịnh thất, trai phòng… vân, vân… Và dĩ nhiên sẽ có khu nghỉ dưỡng riêng của thầy trụ trì và các tăng ni, tiêu chuẩn năm sao, trang thiết bị hiện đại…

-A Di Đà Phật, tôi hiểu… tôi hiểu.

Đến lượt giáo sư tiến sỹ Phật học kiêm thầy phong thủy:

-Ưu điểm lớn nhất của khu vực này là rộng lớn và vuông vức, ba bên là núi, mặt hướng ra biển, tạo năng lượng cân bằng, mang lại tài vận, an khang. Bên trái gọi là Thanh Long, bên phải gọi là Bạch Hổ, phía trước là biển với không gian rộng mênh mông gọi là Chu Tước. Không nơi nào có thế đất đẹp tuyệt vời như thế.

Kiến trúc sư Ngân Lượng  lại trải lên bàn một bản vẽ khác.

-Còn đây là sơ đồ chùa.

Vương Gia có vẻ đặc biệt quan tâm tới bản vẽ chi tiết. Ông mang kính lão và chồm tới trước. Kiến trúc sư thì nói thao thao bất tuyệt với cây thước trên tay không ngớt di chuyển theo lời thuyết minh.

Khi Ngân Lượng dứt lời thì một bà vãi khép nép bước vào chánh điện mời mọi người dùng bữa trưa.

Tiến sỹ Phật học Vô Thường cả cười, khui rượu khai vị. Tiếng nổ của chai vang trắng mang nhãn hiệu Montrachet giá 24.000 đô la Mỹ làm cái nút chai bắn lên bàn thờ trúng ngay vai của Đức Thế Tôn rồi xẹt qua bên trái làm tắt một ngọn nến.

-Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Nhà sư vừa tụng vừa tiến lại phía bàn thờ, bật quẹt thắp ngọn nến vừa tắt. Nhà bếp dọn lên các món gà luộc, cá chẻm, cá hồi, bào ngư, heo sữa quay… cùng rất nhiều trái cây

Thầy trụ trì chắp tay:

-Thật ngại quá. Giữa Phật đường trang nghiêm này mà chúng ta lại ăn mặn. Nhưng…

-Đừng ngại. Tiến sỹ Phật học nói. Vì chính Đức Phật cũng ăn mặn. Và tất cả các tăng ni của Phật giáo nguyên thủy đều ăn mặn. Tôi đã từng đến Myanma và gặp các vị trụ trì ở đó. Đặc biệt họ rất thích món bún mắm Sóc Trăng của phái đoàn ta.

Vương Gia hỏi:

-Ủa! Bộ đức Phật ăn mặn sao?

-Dạ vâng. Ngài đâu có ăn chay. Và xin lỗi, tôi nói điều này có hơi bất ngờ, nhưng bữa ăn cuối cùng của ngài là do các doanh nhân khoản đãi. Ngài ăn món heo sữa quay. Và sau đó bị bệnh dysenterie. Thời đó chưa có thuốc kháng sinh, ngài phải thiền định để chế ngự cơn đau nhưng không có kết quả. Ngài phải xuống sông Hằng ngâm mình suốt ngày để giữ cho cơ thể sạch sẽ và trấn áp cơn đau nhưng… như quý vị biết đó, ngài mất năm 544 trước công nguyên.

Nghe tiến sỹ nói xong, cả thầy trụ trì lẫn Vương Gia đều tái mặt. Nhà sư hỏi:

-Ông lấy tư liệu ở đâu mà dám nói như thế?

Tiến sỹ mở cặp lấy ra một cuốn sách dày cộm, khổ lớn.

-Đây là cuốn Trung Bộ Kinh của Phật giáo Nguyên thủy Theravada. Những điều tôi vừa nói đều nằm trong này.

Rồi ông tiến sỹ Phật học mở ngay trang có các thông tin ấy, đưa cho Vương Gia và sư trụ trì xem.

Xem xong Vương Gia khoác tay, nói lớn.

-Thôi! Gác chuyện kinh kệ sang bên. Chúng ta nâng ly chúc cho dự án này mau chóng được biến thành hiện thực.

Thế là lại cười nói, vui vẻ. Chai vang Montrachet giá hơn 500 triệu đồng đã làm cho ai nấy đều hồng hào tươi tốt.

18. CUỘC GẶP TRONG NHÀ

NGƯỜI THỢ RỪNG

Trại giam Bố Lá ở ngay mặt tiền tỉnh lộ 741 nên cũng dễ tìm. Phía bên trái của trại có một bãi đất khá rộng. Tôi cho xe đậu dưới bóng mát của một cây bàng lớn.

Xe vừa tắt máy đã hiện ra nơi cửa kính một khuôn mặt tròn, tóc tém, lông mi giả. Và một nụ cười toe toét.

Tôi hạ kính xuống.

-Chú đi thăm nuôi hả? Có muốn xin giảm án, hay ly hôn, hay chuyển trại?

-Không… không. Tôi đi công tác.

Khi cửa xe mở ra, hiện nguyên hình một người đàn bà đẫy đà, tươi tốt, ăn mặc theo kiểu tân thời. Hai người đàn ông khác, mặc thường phục đi dép lê, cũng xáp tới.

-Có đồ thăm nuôi nhiều không? Tôi mang giúp.

Bạch Nương nói cám ơn và lách người ra khỏi cửa xe. Những người “cò” bám theo sát nút.

Bốn chúng tôi phải đi rất nhanh tới trạm gác.

Anh công an hỏi:

-Sổ thăm nuôi của chú đâu?

-Tôi không thăm nuôi. Chỉ muốn hỏi tin tức phạm nhân rồi đi liền.

-Phạm nhân tên gì? Ở Đội nào?

-Phạm nhân đã mãn hạn tù cách đây năm sáu năm nhưng không thấy về nhà. Chúng tôi muốn hỏi cô ấy ra tù ngày nào và ai đã đến đón, đón về địa chỉ nào? Xin anh vui lòng lục lại hồ sơ, chúng tôi rất cám ơn.

Người công an lắc đầu với nụ cười mệt mỏi.

-Ra tù cách đây năm sáu năm thì chịu thua. Cả ngàn phạm nhân sao mà biết được.

-Vậy nên chúng tôi mới nhờ anh tìm giúp hồ sơ. Anh thông cảm. Con gái cô ấy từ Mỹ về thăm mẹ.

-Vậy hồi đó ai đi thăm nuôi cổ?

-Cổ không liên lạc với gia đình nên không ai biết cổ bị giam ở đây. Chúng tôi phải hỏi rất nhiều nơi mới ra địa chỉ này. Mong anh giúp đỡ.

Người công an nhíu mày.

-Chú đứng sang bên đi. Tôi còn phải tiếp người khác.

Tôi đành phải trở lại chỗ Bạch Nương và cha con Lâm Oanh đang chờ.

Julia muốn khóc. Nhưng khi chúng tôi định quay lại chỗ đậu xe thì người đàn bà lúc nãy xuất hiện.

-Sao vậy? Đi bệnh viện hả? Hay trốn trại?

Tôi không còn cách nào hơn là trình bày với bà ta tình cảnh đặc biệt của Lâm Yến. Người đàn bà tiến lại chỗ hai người đàn ông đang đứng. Họ thầm thì gì đó với nhau rất lâu. Họ khoa chân múa tay, vỗ trán suy nghĩ, bật lửa đốt thuốc lá.

Cuối cùng cả ba người cùng đến gặp tôi.

-Hồi nãy chú nói phạm nhân tên Lâm Yến phải không?

-Phải.

-Cao ráo. Đẹp như người mẫu?

Bốn người chúng tôi có ai từng gặp Lâm Yến bao giờ đâu, nhưng đều nghĩ cô ấy chắc đẹp.

Bạch Nương khẳng định.

-Chị ấy đẹp. Đẹp lắm.

-Người Đà Nẵng?

-Chính xác!

Anh chàng đứng tuổi vừa nói vừa cười.

-Cũng may là nhờ cổ đẹp nên ở đây ai cũng biết. Nhưng phải cỡ tuổi tôi mới biết, chớ mấy cậu công an trẻ trẻ thì không biết đâu. Vì cổ ở đây đã lâu lắm rồi.

Người đàn bà cười mỉm.

-Vậy là đúng đài rồi. Lâm Yến có hai đặc điểm: một là đẹp. Hai là không có ai thăm nuôi nên thỉnh thoảng tụi tui cũng có gởi cho chút ít quà bằng cách ném qua hàng rào, nhứt là trong các dịp lễ, Tết. Trong khi mọi người xếp hàng đi đón người thân thì cổ đứng một mình dưới gốc cây cao su. Mặt buồn thiu. Có khi khóc. Chỉ tầm hai năm cuối, trước khi mãn hạn, thì có một người đàn ông đến thăm. Rồi cũng chính người đó đến đón cổ về. Rồi đưa nàng về dinh luôn. Tụi tui biết nhà của ông ấy. Ổng là thợ rừng, cũng ở trong xã Phước Hòa, huyện Phú Giáo này.

Bạch Nương dúi vào tay người đàn bà bốn tờ giấy bạc 500 ngàn.

-Chị có thể dẫn chúng tôi đến đó được không?

-Ô-kê. Chuyện nhỏ. Nhưng tụi tui có ba người. Đưa thêm 2 tờ nữa đi.

Tôi móc ra hai tờ xanh.

Họ đi hai xe máy. Người đàn bà chạy chiếc Attila màu đỏ, còn hai người đàn ông thì chở nhau trên chiếc Honda 67. Chiếc Fiat Siena của tôi lẽo đẽo theo sau.

Nơi đến là một căn nhà nhỏ nhưng khá khang trang, có vườn cây ăn trái xung quanh, một giếng nước và một đàn gà đang đi kiếm ăn quanh các gốc cây.

Người đàn bà gọi lớn:

-Có khách! Có khách anh Hai ơi!

Đợi một lúc không thấy chủ nhà. Người đàn bà nói:

– Hồi trước có vài lần tui thấy ổng nhậu với ông xã tui nhưng dạo sau này lặn mất tiêu. Chắc sợ vợ.

Vừa dứt câu, đã thấy một người đàn ông trung niên lững thững đi ra. Tôi chào ông nhưng ông không chào lại. Cái nhìn rất xa lạ.

-Mấy người tìm ai?

Bạch Nương và Julia sấn tới trước.

-Chào anh. Chúng tôi là người nhà của Lâm Yến, mới từ Đà Nẵng vô.

-Lâm Yến đi ra ngoài chưa về. Cô là gì của Lâm Yến?

Bạch Nương chưa kịp trả lời thì Julia đã nói:

-Thưa bác, cháu…

Nhưng tôi đã ngăn con bé đúng lúc. Tôi nói:

-Chỉ là hàng xóm. Nhưng vì ba má Lâm Yến già yếu quá nên nhờ chúng tôi đi tìm. Chúng tôi tìm khắp nơi ở Sài Gòn, cuối cùng mới tới được đây. Gian nan lắm anh à.

-Vậy, mời các vị vào trong.

Chủ nhà mở rộng hai cánh cổng cho tôi đưa chiếc siêu xe của tôi vô sân.

Người đàn bà dẫn đường nói:

-Xong rồi há? Tụi tui dzọt nha!

Trên đường vô nhà, Bạch Nương ghé tai Julia:

-Con đừng hấp tấp. Hãy giấu cảm xúc. Cứ im lặng nghe người lớn nói chuyện. Rồi hai mẹ con sẽ tha hồ mà hàn huyên.

Bố Sơn lại phải dịch sang tiếng Anh vì câu nói ấy có nhiều từ khó. Julia gật gật đầu và cười rất tươi.

Năm người ngồi quanh một cái bàn dài có lẽ vừa là chỗ tiếp khách vừa là bàn ăn. Trên bàn có một nồi cơm nấu toàn gạo lứt, một tô muối mè, một bát đậu hũ chiên và một dĩa củ cải muối.

Bạch Nương nói:

-Xin lỗi, chúng tôi đã làm phiền anh, chắc anh sắp ăn cơm?

-Chưa đâu. Tôi đang đợi bà xã về.

Nhưng mọi người không phải đợi lâu vì nghe có tiếng mở cổng. Người đàn ông xuống bếp lấy thêm chén đũa và một cái ghế đẩu.

Lâm Yến hiện ra trong vùng sáng của cánh cửa phòng khách đang mở rộng. Một người đàn bà ngoại tứ tuần, thanh thoát và rạng rỡ. Người khách mà bà chú ý đầu tiên không phải là Julia hay Nguyễn Sơn hay tôi mà là Bạch Nương.

-Chào mọi người. Chào chị. Đã lâu lắm tôi mới lại nhìn thấy chiếc áo tràng màu lam. Chị ở Sài Gòn mới lên?

-Sao chị biết chúng tôi ở Sài Gòn?

-Tôi nhìn cái biển số xe.

Bạch Nương nói:

-Nhưng chúng tôi đến từ Đà Nẵng.

Lâm Yến định ngồi vào cái ghế đẩu mà ông chủ vừa đem đến, nhưng Julia đã đứng lên đổi chỗ cho bà.

Lâm Yến cám ơn cô bé rồi nói:

-Xin lỗi, tôi chưa từng biết ai trong các vị, nhưng tôi nghĩ rằng sẽ có tin tức về gia đình tôi. Hay là chùa XL? Nếu là chùa thì tôi không muốn nghe đâu.

-Về gia đình. Bạch Nương nói. Ba má chị không còn khỏe nữa. Hai bác rất muốn gặp chị. Sao chị không liên lạc với gia đình?

-Chuyện ấy không thể nói trong một vài câu. Hay là mời mọi người dùng bữa cơm chay đạm bạc. Nhưng trước hết chúng ta hãy làm quen với nhau đã. Tôi là Lâm Yến, còn đây là anh Phạm Chương, ông xã tôi. Chúng tôi đều tu tại gia, ăn chay trường.

Bạch Nương đứng lên.

-Tôi là Bạch Nương, cũng là cư sỹ như anh chị. Ngồi cạnh tôi là anh Phan Vũ, nhà báo. Kế đến là anh Nguyễn Sơn Việt kiều Mỹ và cô bé đang ngồi cạnh chị là…

Lời chưa dứt, Julia đã òa khóc. Như sóng tràn bờ. Như thác đổ. Như gió cuốn lá bay mịt mù trời đất. Cô bé khóc như sắp vỡ tan, như lửa cháy tràn lan mặt đất. Tiếng khóc làm mọi người sửng sốt. Nhưng người sửng sốt nhất là Lâm Yến, bởi vì từ nãy giờ, ngồi cạnh bà, cô gái cứ im lìm, cúi mặt, lầm lì, xa cách.

Lâm Yến đặt bàn tay lên vai cô gái.

-Cô xin lỗi, không biết cô có làm điều gì khiến cháu buồn. Cháu tên là gì?

Nguyễn Sơn lấy từ túi áo ra một tờ giấy.

-Tôi đã tìm thấy nó trôi dạt trên biển cùng với một đứa bé sơ sinh, trong chiếc thau nhựa màu đỏ. Tên của cháu có ghi trong mảnh giấy này.

Lâm Yến cảm thấy một đợt rung chuyển kỳ lạ đến từ vô thức. Những dòng chữ đang tỏa sáng trước mặt bà. Bà không cần phải đọc. Bà không cần phải hỏi thêm câu nào nữa. Không cần phải nói một lời nào nữa. Bà chỉ cần ôm đứa con gái của mình.

Và cùng khóc với nó.

19. CHUYỆN NGƯỜI THỢ RỪNG

Thời trai trẻ, Nguyễn Sơn lái máy bay phản lực A37 đánh nhau ở trên trời. Xong một phi vụ, chàng ta thường vô uống bia ở câu lạc bộ không quân trong phi trường, cho nên chẳng biết gì nhiều về mặt đất. Rừng thì chàng lại càng mù tịt, đừng nói là thợ rừng.

-Thợ rừng là gì? Sơn hỏi. Anh làm cái gì trong rừng?

Chủ nhà Phạm Chương ngửa mặt ngắm mấy trái mướp treo lủng lẳng trên giàn.

-Đi săn. Chồn, hoẳng, gà rừng, nhím… chẳng hạn.

-Ngày nào cũng đi?

-Tuần vài lần. Có khi chỉ đi hái nấm, trái ươi, măng tre, sim.

-Vậy gặp Lâm Yến trong trường hợp nào? Tôi hỏi.

-Bữa đó đuổi theo một con thỏ rừng, đi lạc tới trại giam. Con thỏ mang mũi tên chui vô hàng rào kẽm gai. Mất hút. Tôi quan sát các gốc cao su để tìm con thỏ thì thấy từ xa một toán nữ phạm nhân cầm dao, rựa, đang chặt cây, gom các cành củi chất thành đống.

Hôm qua có cơn gió lớn quét ngang rừng cao su, một số cây bị đổ và nhiều cành khô bị gãy nằm la liệt trên mặt đất. Toán người làm việc chậm chạp và im lặng. Họ mặc áo tù kẻ sọc như đồng phục của đội tuyển Argentina.

Bỗng nhiên tôi nghe có tiếng gọi:

“Anh ơi! Anh tìm con thỏ hả? Nó nằm đây nè. Nó chết rồi.”

Đó là một người nữ gầy còm, da tái mét, tóc dài và rối. Cô đang ngồi tựa vào gốc cây cao su, hai chân duỗi thẳng.

“Cô bị sao vậy?” Tôi hỏi và nhìn quanh chỗ cô ngồi xem con thỏ nằm đâu. Cô gái nói:

“Tôi bị chóng mặt nên đội trưởng cho nghỉ. Để tôi đem con thỏ cho anh nha?”

“Cô có đi nổi không?”

Cô gái đứng dậy, xách con thỏ, bước từng bước lại phía tôi. Tôi thò tay qua lỗ rào nhận con vật và nói cám ơn. Cô gái hỏi:

“Anh có cái gì ăn không? Cho tôi xin một ít. Tôi không có ai thăm nuôi nên rất đói.”

Tôi lục trong túi xách, thấy chỉ còn cái đuôi bánh mì khô hồi sáng tôi ăn còn thừa.

“Xin lỗi. Tôi đặt mẩu bánh mì trên lòng bàn tay. Chỉ còn chút xíu này. Đưa cho cô thật kỳ quá.”

Cô gái nhận lấy mẩu bánh rồi quay đi. Tôi gọi:

“Này cô. Hay là cô đem con thỏ này về. Tôi thấy cô xanh xao quá.”

Lúc hai bên đối diện nhau tôi thật ngỡ ngàn trước một khuôn mặt thật đẹp. Cặp lông mày rậm, mềm mại, làm cho cái nhìn của cô cuốn hút kỳ lạ.

Tôi rút mũi tên ra khỏi con thỏ rồi đưa cho cô. Cái miệng cười mệt mỏi, đôi môi tái nhợt nhưng nét môi trông thật quý phái.

“Cô cho tôi biết tên được không? Tôi là Phạm Chương, nhà ở gần đây.”

“Tôi tên Lâm Yến. Cám ơn món quà quý giá của anh. Mỗi bữa cơm chúng tôi chỉ được nửa quả trứng, ăn với rau muống luộc chấm nước muối. Nhưng cạo mủ cao su cực lắm anh à. Những người không được thăm nuôi như tôi cứ kiệt sức dần.”

Rồi Lâm Yến kẹp con thỏ vô nách, xòe hai bàn tay đưa ra sát mặt tôi. Bàn tay thon thả nhưng đầy những vết cắt đã thành sẹo.

Tôi nói: “Ngày mai tôi sẽ đem bánh mì cho cô. Nếu không gặp thì tôi sẽ giấu nó trong lùm cây này. Chỗ tôi đang đứng. Cô có với tới được không?”.

“Được. Tôi cao thước bảy đó, anh”.

Lúc ấy có tiếng xe máy gầm rú. Lâm Yến giấu con thỏ trong ngực áo rồi quay đi, trốn vô lùm cây.

Chiếc xe máy của cán bộ quản giáo chạy dọc theo hàng rào kẽm gai, nhấp nhô trên mặt đất gồ ghề.

*

Từ hôm đó, lùm cây trở thành nơi hẹn. Và tôi trở thành người thăm nuôi thường xuyên của cô. Quy định của trại là mỗi tháng thăm nuôi một lần, nhưng số lần thăm nuôi của tôi có khi gấp mười.

Ngày kia Lâm Yến nói:

“Nếu anh có thương em thì hãy làm một cái sổ thăm nuôi cho nó đàng hoàng. Cứ lén lút như vầy có ngày họ bắt được thì chẳng những bị phạt mà còn bị kéo dài thời gian cải tạo. Anh có làm được không?”

“Được, tôi nói. Nhưng sẽ khai anh là gì của em?”

“Là anh cũng được.”

“Nhưng khác họ, sao có thể là anh em? Hay khai là chồng em nha?”

Lâm Yến cười. Lúc này nụ cười rất tươi, môi đỏ thắm, hàm răng đều, ngời sáng. Cô cũng đầy đặn hơn, tươi trẻ và dĩ nhiên là rất đẹp.

Tôi dẫn vài vị quan chức xã đi nhậu mấy lần, và thế là có một cuốn sổ thăm nuôi. Trong đó có dòng chữ: “Quan hệ gia đình với phạm nhân: chồng.”

Tự nhiên ông Trời ban cho tôi một cô vợ quá xinh!

Nguyễn Sơn và tôi ngồi chóc mỏ nghe, để ly cà phê nguội ngắt.

20. TRƯỜNG HỢP LÂM YẾN

Trong khi ba người đàn ông ngồi uống cà phê ngoài sân thì cánh phụ nữ nằm trong phòng ngủ. Hai mẹ con Lâm Yến chung giường. Bạch Nương nằm võng.

Lâm Yến bắt đầu câu chuyện:

-Năm mẹ mười ba tuổi thì bà ngoại mất. Ông ngoại có vợ khác. Nhà rất nghèo nên bà này bắt mẹ nghỉ học để ra chợ bán gà với bà.

Ban đầu mẹ cũng thích bán gà vì chúng rất hiền lành, dễ thương. Nhưng bữa kia có người khách đòi phải làm thịt con gà. Vậy là con gà mái bị bắt ra khỏi lồng. Người dì ghẻ dùng bàn chân trái đè lên hai cánh con gà, giữ chặt nó trên nền đất. Bàn chân phải của bà ta thì đè lên hai chân con gà làm nó hết cựa quậy. Mẹ nhìn đôi mắt ngây thơ của con vật, mẹ thấy nó sợ hãi, không biết người ta đang làm gì mình.

Chính mẹ cũng không biết bà ta giữ chặt con gà như vậy để làm gì. Bà ta nắm đầu con gà bằng tay trái, kéo căng cổ nó ra. Tay phải cầm con dao. Rồi cứa mạnh một nhát vô cổ họng con gà. Máu tuôn ra, chảy xuống cái chén. Con gà giãy giụa tuyệt vọng. Nhưng bà ta lại dùng mũi dao thọc sâu vô vết cắt, moi cổ họng nó ra rồi cắt đứt lìa. Con gà giãy chết.

Mẹ khiếp đảm. Đó là lần đầu tiên trong đời mẹ nhìn thấy người ta cắt cổ một con gà. Mẹ khóc hu hu. Rồi đứng dậy, bỏ chạy. Mẹ không đi bán gà nữa.

Nhưng ông ngoại đánh mẹ, buộc mẹ phải đi. Ông ngoại nói: “nếu mày không làm việc thì phải nhịn đói. Vì cơm đâu cho mày ăn?!”. Thế là mẹ lại tiếp tục đi bán gà.

Julia nói:

-Thôi, mẹ ơi. Ghê quá! Mẹ kể chuyện khác đi.

-Nhưng con phải biết chuyện đó để hiểu vì sao mẹ bỏ nhà lên chùa.

-Vậy sao mẹ còn tiếp tục bán gà?

-Vì mẹ không biết nương tựa vào ai. Cho đến một ngày, người dì ghẻ bắt mẹ phải làm cái hành động cắt cổ gà ấy. Bà nói: “Mày phải tập cho quen tay. Khi đông khách, mình tao sao làm kịp?”. Thế là mẹ quyết định trốn nhà lên chùa.

-Bộ ở chùa có orphanage hả mẹ?

-Nó hỏi, trên chùa có trại mồ côi hả? Bạch Nương nhắc tuồng.

-Không có. Nhưng người ta nuôi trẻ con để sai vặt, giống như người giúp việc.

-Lúc ấy mẹ bao nhiều tuổi?

-Mười sáu. Nhưng cao lắm. Giống ông ngoại.

Bạch Nương nói:

-Nhưng “đẹp gái” thì chắc giống mẹ?

-Cha mẹ em đều đẹp.

-Vì đẹp nên thầy trụ trì mới động lòng chứ gì?

-Lúc ấy ông ta chưa phải là trụ trì. Chỉ là một nhà sư tầm 25 tuổi. Nói cho công bằng thì ông ta cũng không ép em. Ổng đẹp trai. Và em cũng thích ông. Em gọi ổng là sư huynh.

Nhưng từ khi Vương Gia đến, bỏ tiền ra sửa sang ngôi chùa thì ông sư trẻ bỗng nhiên được mọi người tôn trọng khác thường. Ông ta thay đổi rất nhanh. Có xe hơi, nghe nhạc trẻ và thường đi họp hành ở đâu đó. Rất thích uống rượu. Cho nên người ta đem rượu Tây đến biếu rất nhiều.

Bữa kia ông ra ngoài, về rất khuya. Khi xuống xe, em thấy ổng đi cà nhắc. Em chạy lại đỡ ổng và hỏi: “Sư huynh có sao không?” Ông chỉ cười, không có vẻ gì là đau đớn. Nhưng ông bảo em: “Lát nữa đem cho thầy ít bông gòn.”

Chừng mười lăm phút sau em đem bông gòn lên phòng ông. Ông nói: “Có một vết xước chảy máu. Con rửa giúp thầy.” Một vết thương nhẹ ở cổ tay. Em lấy bông gòn thấm oxy già rửa cho ông. Ông hỏi: “Con bao nhiêu tuổi rồi?” “Dạ, con mười tám.”. “Con đẹp lắm. Đẹp còn hơn hoa hậu.” Em bối rối quá, chỉ lí nhí: “Dạ, sư huynh.” Thì bỗng nhiên ông ôm em. Ôm rất chặt. Em bủn rủn tay chân. Hồn vía lên mây. Không còn sức kháng cự.

Ngày hôm sau em giả bệnh, nằm liệt giường.

Em vẫn nghĩ đó chẳng qua là giây phút yếu lòng của đôi bên, nhưng không phải vậy. Nó giống như một con quỷ đã nhập vào em. Giống như bị ma ám. Đi đứng không vững. Nói trước quên sau. Thậm chí cầm cái chén, đôi đũa cũng dễ làm rớt. Mọi người hỏi, em nói: “Chắc bị rối loạn tiền đình.”

Thế rồi con quỷ ấy cứ thúc hối em đến gặp ông ta.

Nhưng điều đó lại làm ông ta sợ. Ông nói: “Ở sau chùa có một cái nhà nhỏ. Thầy sẽ sửa lại cho tươm tất để con tịnh tâm thiền định.”

Julia, nãy giờ im thin thít, bỗng nói:

-Con biết căn nhà ấy. Nó ở cạnh vườn rau phải không?

-Sao con biết?

-Hôm đó bố Sơn và bác Nương dẫn con lên chùa tìm mẹ. Một Ni sư già đã chỉ cho con. Con đến nơi và thấy một cảnh rất kỳ lạ.

Lâm Yến ngồi bật dậy.

-Con đã thấy gì vậy?

-Một cô gái trẻ chỉ mặc đồ lót đang nằm trên giường và hít cái thứ gì đầy khói trắng. Sau này khi kể lại cho bố Sơn nghe, bố nói đó là “drug” tức là ma túy. Chất ma túy ấy tên là Methamphétamine, rất mạnh, rất nguy hiểm.

-Căn nhà ấy là nơi mẹ từng ở. Nhà chùa gọi chuyện đó là “nhập thất”, tức là tự nhốt mình một thời gian để tịnh tâm, trì chú. Nhưng thực ra là nơi để ông ta lui tới.

Rồi mẹ mang bầu. Nhưng khi mẹ báo tin ấy cho ông thì ông nổi giận. Gần như hét lên:

“Sao lại để có bầu? Thuốc ngừa thai tôi đưa cho cô đâu?”

 “Vứt sọt rác!”.

Một cái tát rất mạnh khiến mẹ ngã xuống giường. Nhưng mẹ không khóc, trái lại nó làm mẹ bình tĩnh. Mẹ nói: “A Di Đà Phật! Nếu sư huynh sợ thì đừng có làm. Mà đã làm thì đừng có sợ.”

Ông ta bỏ đi. Đóng mạnh cánh cửa.

Suốt một tuần ông ta không đến. Mẹ cũng không đợi. Cũng không giam mình trong phòng nữa. Dẹp mẹ những trò giả dối đi! Mẹ cứ lầm bầm như thế.

Sang tuần thứ ba thì ông đến.

“Cô phải phá thai.”

“Không bao giờ!”

“Tôi ra lệnh cho cô phải phá thai!”

“Sư huynh ơi là sư huynh! Ngài muốn giết người hả?”

Ông ta giận sùi bọt mép.

“Cô có biết rằng tôi sắp làm trụ trì chùa này không? Cô có biết quyền lực của Vương Gia lớn cỡ nào không?”

“Tôi chỉ cần biết con tôi thôi.”

“Vậy phải đuổi cô ra khỏi chùa.”

“Tôi không đi.”

“Không đi cũng không được!”

Sáng hôm sau, có một ông bác sỹ đến tịnh thất của mẹ. Ông ta rất ân cần. Bắt mạch cho mẹ. Đo huyết áp. Rồi ông ta nói:

“Để tôi chích thuốc cho cô.”

Mẹ nói:

“Tôi có bệnh gì đâu mà chích thuốc?”

“Chỉ là thuốc bổ.”

Linh tính bảo mẹ phải cảnh giác. Mẹ từ chối. Nhưng ông ta vẫn bơm thuốc vào ống tiêm và bảo mẹ nằm sấp xuống. Mẹ nghi quá. Trừng mắt. Hắn đẩy mẹ nằm xuống. Lúc ấy thì mẹ chắc chắn là hắn muốn chích thuốc phá thai. Mẹ đá mạnh vô tay hắn. Ống tiêm văng vô tường, nước thuốc tung tóe. Rồi như một con điên, mẹ ném cái ly thủy tinh vào mặt hắn. Hắn đứng dậy, bỏ ra khỏi phòng.

Ngay hôm sau, mẹ rời chùa XL lúc trời chưa sáng hẳn, chỉ với một cái tay nải bằng vải thô, bên trong có bộ đồ ngủ rẻ tiền và một ít bạc lẻ. Trong chùa không ai hay biết.

Julia nằm nghiêng, ôm gối khóc rưng rức.

21. PHÁ GIỚI

Khi Lâm Yến về tới nhà thì bà dì ghẻ đang ở ngoài chợ. Ông già hỏi:

-Đã bỏ nhà đi tu, sao còn về? Sao không đi luôn đi!

Lâm Yến đứng như trời trồng giữa nhà. Ông già ngồi trên cái giường tre, quan sát cô từ đầu đến chân.

-Ăn cơm chùa mà cũng mập dữ.

-Không mập đâu. Có bầu đấy.

-Có bầu? Mày chửa hoang? Con của cái thằng trọc bợm rượu đó hả?

-Nó đó!

-Thiên hạ đồn nó là cán bộ. Nó giàu lắm mà. Sao nó không nuôi mày? Bộ tính về đây báo đời tao hả?

-Về đẻ. Không thể đẻ trong chùa.

-Không được. Mày soi gương mà coi. Đầu thì trọc lóc. Mình mặc áo tràng. Ông địa ơi! Ni cô mà chửa hoang! Chắc tao bỏ xứ đi quá!

Lâm Yến biết đó chỉ là màn một. Màn hai sẽ còn ác liệt hơn. Bởi vì cái bà cắt cổ gà kia chửi rủa rất chuyên nghiệp. Lảnh lót còn hơn gà trống gáy.

Tuy nhiên, đói. Cần ăn cho no đã.

Lâm Yến xuống bếp. Chỉ còn hột vịt và mấy con khô sặc. Trong ngũ giới mình đã giữ được bao nhiêu? Không sát sinh? OK, thà chết không cắt cổ gà. Không trộm cắp? OK. Tà dâm cũng không, nhưng lại chửa hoang mới đáng nể chứ! Không nói dối? OK. Không uống rượu? Rượu thường thì không uống, chỉ chơi toàn rượu Tây với sư huynh. Vậy là mới phạm có hai giới. Từ từ… Ta sẽ chơi đủ bộ luôn.

Lâm Yến vừa gặm con khô sặc vừa tự nhủ mình sẽ ngủ một giấc dài trước khi bỏ đi, để tránh phải gặp mặt dì ghẻ.

Nhưng khi vừa thức dậy đã nghe giọng soprano của dì.

-Phải bắt nó phá thai. Nếu không thì ra khỏi nhà.

Lâm Yến bước ra sàn diễn.

-Khỏi đuổi. Nè! Bà thấy tui đẹp không? Người như tui sẽ làm quý phi, rồi sau đó làm nữ hoàng giống như Võ Tắc Thiên vậy. Chứ không phải đi bán gà như bà đâu. Bà hiểu chưa! Bộ bà tưởng đuổi tui là tui sẽ sống đầu đường xó chợ? Sẽ móc đất mà ăn hả? Còn lâu.

Giọng soprano im bặt.

Lâm Yến thắp một cây hương trên bàn thờ mẹ, rồi  mang cái tay nải lên vai, bước ra khỏi nhà. Cô đi thẳng tới quán cà phê của một đứa bạn hồi còn học cấp hai, với lời thề “phá ngũ giới, làm lại cuộc đời.”

Còn bây giờ thì phải lo đẻ em bé. Phải “mẹ tròn con vuông”. Nhưng con mình không thể “vuông” được. Nó phải là hoa hậu của cái xứ Đà Nẵng này!

*

Lâm Yến làm việc ở quán cà phê ấy mới được mười ngày mà đàn ông bu tới như ruồi. Xua đi không hết. Tiền “tip” mỗi ngày từ một tới hai triệu. Tuy vậy qua một tháng mà vẫn chưa thấy có hoàng tử nào đến rước về làm quý phi.

Tháng thứ hai bắt đầu sốt ruột. Tháng thứ ba thì lo lắng vì cái bầu đã lớn, quá lộ liễu. Đàn ông thưa dần. Rồi gần như không có ma nào yêu cầu cô đến “ngồi bàn” nữa. Tất nhiên tiền “tip” cũng giảm nghiêm trọng.

Lâm Yến tính làm việc đến cuối tháng thì nghỉ, vì đã tìm được một chân bán hàng trong siêu thị.

Mười giờ trưa cô từ giã bạn bè trong quán để ra về. Nhưng khi vừa xô cánh cửa kính, bước xuống mấy bậc thềm, thì “hoàng tử” đến.

Chàng cưỡi một con ngựa Xích Thố màu đỏ tía mang nhãn hiệu Camry, tay cầm cây Phương Thiên Họa Kích. Chàng xuống ngựa, hiên ngang bước qua đường, tiến đến cửa quán.

Thật là:

Râu hùm hàm én mày ngài

Vai năm tấc rộng, lưng mười thước cao

Đường đường một đấng anh hào…

Đôi trai tài gái sắc gặp nhau ở ngay mấy bậc thềm. Vừa nhìn thấy Lâm Yến, chàng đã “đứng hình” và á khẩu trong mười lăm giây. Sang giây thứ mười sáu chàng mới nói được.

-Trời ơi! Chắc tui chết!

-Sao chết?

-Tuyệt sắc giai nhân!

Khi cái mặt của đàn ông đờ ra như một thằng ngu, thường làm Lâm Yến mắc cười. Cô nói:

-Làm ơn tránh sang bên cho tui đi.

-Em mà đi thì anh chết liền.

-Có chết thì chết lẹ đi. Tui còn về.

-Về đâu? Anh đưa em đi.

-Nè! Sao ông dám kêu tui bằng “em”? Bộ ông không thấy cái bụng bầu của tui hả? Bảy tháng rồi đó. Sắp sinh em bé.

-Đúng gu! Anh rất thích phụ nữ có bầu. Vì nó rất đoan trang, rất đằm thắm, bao dung, từ bi bác ái như Phật bà Quán Thế…

-Thôi… thôi…Tắt đài dùm cho tui nhờ.

-Không được. Đài này phát sóng 24/24.

Lâm Yến lách người bước xuống thềm. Cô đứng trên lề đường đón taxi, nhưng giờ cao điểm xe nào cũng kẹt khách.

Bỗng nhiên có chiếc Camry tấp vô lề. Đúng là con ngựa xích thố của hoàng tử. Lâm Yến đành phải lên xe. Và nó dzọt rất lẹ.

-Sao anh không hỏi tui đi đâu?

-Tại sao phải hỏi? Trừ đồn công an ra, chỗ nào em muốn thì anh cũng đưa tới được.

-OK. Vậy làm ơn chở đi gặp chồng tui.

Chàng ta cười hô hố.

-Sao ông cười?

-Vì em không có chồng.

-Tại sao ông nói vậy?

-Vì nếu có chồng thì một người vợ mang bầu bảy tháng không bao giờ phải đón taxi.

-Anh đúng là láu cá.

-Và em cũng không có xe gắn máy nữa.

-Trời ơi! Sao cái chi anh cũng biết hết vậy? Anh tên gì?

-Lữ Bố. Nhưng trong Chứng Minh Nhân Dân ghi là Lữ Phụng Tiên.

-Sao nghe quen quá vậy ta? Lâm Yến nhíu mày. Giống như phim cổ trang. Đúng rồi. Tui nhớ ra rồi. Vậy là anh đã có vợ?

-Anh đang độc thân.

-Thế Điêu Thuyền đâu?

-Đang ở trong ti-vi. Làm gì có ngoài đời.

Hai người đều cười ha hả. Và đều cảm thấy rất thân mật. Hợp “gu”.

Lữ Bố hỏi:

-Bây giờ mình đi đâu?

-Khỏi. Cứ chạy vòng vòng chơi. Có đủ xăng không?

-Đầy bình. Chạy tới sáng cũng được.

-Tốt quá! Nhưng mà…

-Sao?

-Ở quán cà phê, ngồi với khách mỗi giờ được “bo” hai trăm ngàn. Từ đây tới sáng còn đúng 12 tiếng. Có tiền trả không?

Lữ Bố im lặng. Lát sau anh ta gọi lớn:

-Người đâu! Dâng rượu!

Tức thì mở cốp xe lấy ra một chai Chivas Regal và hai cái ly.

-Mời đại tiểu thư!

Lâm Yến từng uống rượu suốt đêm với sư huynh nên nốc một hơi cạn sạch rồi tự tay rót đầy ly.

Uống đến ly thứ ba, Lữ Bố nói:

-Thôi, em đừng uống nữa. sẽ ảnh hưởng tới thai nhi.

-Cám ơn. Anh không nhắc thì chắc em uống cạn chai rượu. Thôi, vậy được rồi. Anh cho em về nhà.

Cô bảo anh ta đậu xe ngoài đầu hẻm. Lữ Bố bước xuống xe, đi vòng ra phía trước, mở cửa cho bà bầu, rồi dìu cô xuống xe. Cô nói cám ơn. Vừa định quay đi thì anh ta gọi:

-Yến ơi! Sáng mai anh tới đón em lúc tám giờ.

-Để làm gì?

-Anh muốn tặng em một chiếc xe máy.

-Chuyện đó tính sau. Mai đi ăn sáng. Em có chuyện muốn bàn với anh.

 22. ĐỊNH MỆNH HAY NGẪU NHIÊN?

Hắn tặng Lâm Yến một chiếc xe tay ga hiệu Yamaha giá 50 triệu. Một tháng sau, hắn rủ cô tới nhà chơi. Căn nhà ở ngoại ô Đà Nẵng. Nhỏ nhưng sang trọng.

-Anh mới mua 10 tỷ.

-Làm gì mà giàu vậy?

-Kinh doanh địa ốc.

-Vậy chắc anh có nhiều nhà. Có cái nào xấu xấu bán rẻ một cái đi.

-Nếu muốn, em cứ dọn tới đây ở. Sinh con xong anh sang tên cho em luôn.

-Sao anh tốt với em vậy?

Hắn chỉ cười.

Khi Lâm Yến sinh con, hắn trực hăm bốn trên bảy ở bệnh viện. Lúc làm các thủ tục nuôi bệnh, cô mới biết tên thật của hắn là Trần Cung.

Hắn tự đi mua thức ăn và ngồi ăn chung với cô tại giường bệnh. Có lần Lâm Yến hỏi hắn:

-Em coi phim cổ trang thấy Lữ Bố là một võ tướng. Sao Lữ Bố ngày nay si tình quá vậy?

-Em lầm! Lữ Bố là kẻ si tình số một thời Tam Quốc. Lúc đánh nhau với Tào Tháo ở Từ Châu thì Điêu Thuyền bị bệnh. Chính vì phải chăm sóc cho phu nhân mà hắn bị Tào Tháo bắt giết.

Lâm Yến im lặng. Một lúc lâu.

-Em biết tên thật của anh rồi. Anh tên là Trần Cung.

– Thật ra Trần Cung là quân sư của Lữ Bố. Cho nên Trần Cung hay Lữ Bố cũng vậy thôi. Đều rất yêu em.

Lâm Yến ngã vào lòng hắn, chảy nước mắt.

Lúc xuất viện, hai mẹ con dọn về ở luôn với Trần Cung, không do dự. Không cần điều tra lý lịch và cũng không nhắc tới chuyện sang tên căn nhà.

Khi bé Lâm Oanh được năm tháng tuổi thì một sáng kia, tầm 9 giờ, Trần Cung đi phố về.

-Yến ơi! Hôm nay mình đi Bà Nà chơi đi em. Đó là điểm du lịch đẹp nhất Đà Nẵng.

-Nhưng đem con đi theo được không?

-OK. Khí hậu ở đó mát mẻ, trong lành. Rất tốt cho trẻ con. Em thu xếp các thứ cần thiết cho con đi: Bình sữa, tã lót, đồ ấm, giày vớ, phấn, sữa tắm… Nhớ chuẩn bị đầy đủ, còn anh thì xếp hành lý cho em. Mình đi liền sáng nay. Anh có hẹn với mấy người bạn ở Mỹ mới về.

-Anh thì lúc nào cũng gấp. Cứ như chạy giặc.

*

Đúng 10 giờ sáng, Họ khởi hành. Xe chạy với tốc độ rất nhanh.

Chạy được một lúc, Lâm Yến nhìn cảnh vật hai bên đường, thấy khác lạ, bèn hỏi:

-Ủa, đường này đi Sơn Chà mà?

-Mấy người bạn đang đợi anh ở đó. Mình ghé một chút rồi cùng đi.

Xe chạy ra sát chân núi, chỗ tiếp giáp với biển.

-Sao lại ra biển?

-Tụi nó đợi anh ở trên tàu.

-Lúc nãy anh nói đi Bà Nà mà.

-Thì lên tàu chơi một tí rồi đi Bà Nà. Có sao đâu. Còn sớm mà.

Đợi Lâm Yến bế con xuống xe xong, Trần Cung lái chiếc Camry chui vào một bụi rậm rồi tắt máy.

-An toàn. Xe khỏi bị nắng.

Nói xong hắn đến chỗ Lâm Yến, lấy một tấm khăn lớn đã chuẩn bị sẵn từ trước, bọc em bé rồi mang sau lưng như cái ba lô.

Hắn dắt tay Lâm Yến nhảy xuống chiếc ghe nhỏ đậu sát mé nước.

Vùng biển này gần như không có bãi cát. Chỉ là nước tiếp giáp với vách đá, đầy hang hốc. Sóng vỗ ì oạp.

-Bạn anh đâu? Lâm Yến thấy rờn rợn. Sao chiếc ghe có chút xíu vầy nè?

-Tụi nó neo tàu khuất bên trong các vách đá. Chắc đang nhậu. Cảnh ở đó đẹp lắm.

Chiếc ghe máy chạy sâu vào trong một eo biển hẹp, lọt thõm giữa các vách đá lởm chởm. Cảnh vật càng lúc càng vắng vẻ. Lâm Yên thấy lạnh người.

-Trần Cung nè! Nói thật đi. Anh định đưa mẹ con em đi đâu vậy? Để làm gì?

Trần Cung làm bộ như không nghe câu hỏi đó, cứ ngước mặt nhìn lên các vách núi. Bỗng nhiên từ trên cao một loạt đạn bắn xuống. Nước tung tóe quanh mạn thuyền. Em bé giật mình, khóc thét lên. Lâm Yến ôm con nằm sấp xuống đáy ghe.

Trần Cung cặp sát chân núi. Một loạt đạn nữa lại vang lên. Tiếng loa phóng thanh từ trên cao vọng xuống: “Chúng tôi đang bao vây bốn phía. Muốn sống thì tắt máy và dừng lại.”

Máy bộ đàm trên sườn núi vang lên: “Đà Nẵng gọi Sài Gòn! Đã phát hiện đối tượng và sắp bắt được chúng.” Sài Gòn ra lệnh: “Giải giao đối tượng về Sài Gòn ngay trong đêm nay bằng máy bay để đối chiếu lời khai.”

Trên ghe máy, Trần Cung bảo Lâm Yến:

-Anh xin lỗi đã lừa dối em. Anh buôn ma túy từ Bangkok về Sài Gòn, bị truy nã, trốn ra đây.

-Nhưng tại sao anh lại đưa tôi theo? Sao anh không để tôi về nhà? Tôi có liên quan gì tới chuyện làm ăn của anh? Sao anh cột tôi vào tội chết?

-Em là người ngoài. Em đừng sợ. Họ sẽ không có bằng chứng gì về em cả. Vì sự thật là như vậy. Anh đưa em theo vì anh quá yêu em. Anh không thể sống xa em được.

-Nhưng ngồi tù không phải là xa em sao?

-Không sao đâu. Chúng ta sẽ thoát, anh biết có một cái hang bí mật.

Trần Cung đặt bé Lâm Oanh (lúc này đã được ru ngủ) và các vật dụng cần thiết vào trong một cái thau nhựa có sẵn trên ghe. Xong, hắn bẻ ngoặt tay lái, chui vào một luồng nước hẹp.

Hắn rút khẩu AK 47 từ dưới đáy ghe ra, mở khóa an toàn, lên đạn.

-Có thể sẽ có đụng độ. Hắn vừa nói vừa đưa cho Lâm Yến một tờ giấy và cây bút. Em hãy viết vài dòng rồi nhét vào người em bé, phòng khi hai mẹ con thất lạc nhau.

Nghe vậy, Lâm Yến bật khóc. Nhưng rồi vẫn phải cầm tờ giấy và cây bút.

Một lúc sau có tiếng động cơ của tàu tuần tra cảnh sát biển tiến vào dòng hải lưu. Một loạt đạn vang lên. Trần Cung trúng đạn, văng xuống biển. Chiếc ghe tròng trành nghiêng ngả làm cả hai mẹ con Lâm Yến đều rơi xuống nước.

Trần Cung chìm lỉm. Lâm Yến hoảng hốt nhìn quanh tìm con, nhưng lúc ấy chiếc thau nhựa màu đỏ đang theo dòng hải lưu trôi đi rất nhanh, mất hút sau những hốc đá mọc đầy bụi rậm, che khuất tầm nhìn.

Cô gào to:

-Con ơi! Con của tôi! Có ai cứu con tôi với!

Lâm Yến cố bơi theo con, vừa bơi vừa khóc, nhưng chỉ được một đoạn thì kiệt sức và ngất đi.

*

Những điều Julia nghe kể hoàn toàn vượt xa trí tưởng tượng của cô về mẹ mình. Cô đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Chỉ có khóc và khóc.

-Sau đó ai đã cứu mẹ?

-Cảnh sát biển. Họ đã đến kịp thời lúc mẹ ngất xỉu. Họ cũng cứu được Bác Trần Cung. Bác ấy bị trúng đạn ở vai trái. Mẹ và bác ấy bị đưa về Sài Gòn ngay trong đêm bằng máy bay quân sự. Mẹ la hét, gào khóc trên máy bay vì nghĩ rằng con đã chết trên biển rồi. Những người cảnh sát bịt miệng và còng tay mẹ. Hình như họ đã tiêm cho mẹ một mũi thuốc an thần. Mẹ quỵ xuống sàn, rồi ngủ thiếp đi.

Sau một tuần hỏi cung, họ đối chiếu các lời khai của mẹ cùng nhóm tội phạm trong đường dây ma túy ở Sài Gòn và kết luận là mẹ không dính dáng tới băng nhóm ấy. Mẹ được trả tự do với một ít tiền để trở về Đà Nẵng, nhưng mẹ không muốn về vì đó là nơi có quá nhiều kỷ niệm đau buồn. Hơn nữa, bác Trần Cung đang nằm bệnh viện. Mẹ quyết định đến thăm ông, thấy ông xanh xao, tiều tụy, lại còn bị còng tay vô thành giường. Con ạ, con đừng ghét bác ấy nhé. Dù sao bác cũng là người rất yêu mẹ và rất tốt với mẹ. Mẹ không thể bỏ bác ấy một mình trong tình cảnh đó. Mẹ đã ở luôn trong bệnh viện để chăm sóc ông, tối ngủ ngoài hành lang chật hẹp, đông nghẹt người.

Mấy hôm sau ông xuất viện trên một chiếc xe bít bùng. Sau đó tòa kêu án 20 năm tù giam.

Bạch Nương nói:

-Giờ này, mình ngồi đây, chắc ông ấy đang nằm chèo queo trong tù.

-Em có đi thăm mấy lần. Tù hình sự vẫn được ra ngoài lao động. Em thấy ảnh cũng khỏe và vẫn còn dí dỏm. Ảnh nói: “Anh may mắn hơn Lữ Bố. Anh ta bị Tào Tháo giết chết. Rồi lại còn muốn cưỡng đoạt Điêu Thuyền khiến cho nàng ấy phải tự sát. Còn anh thì vẫn được gặp em.”

Bạch Nương cầm tay Lâm Yến.

-Nhưng hai mươi năm thật quá dài! Kẻ si tình nào cũng thật đáng yêu. Dù hắn là ai.

Julia thì cứ ôm mẹ, không rời một giây phút nào.

-Trước đây, khi con còn sống với sư phụ trên núi, và cả những năm sống bên Mỹ, mọi người vẫn thầm trách mẹ sao nỡ bỏ con trên biển, nhưng bây giờ thì con đã hiểu. Ước gì mẹ có thể sang Mỹ, sống chung với con và bố Sơn cùng một mái nhà.

-Có đôi lần mẹ cũng nghĩ như vậy nhưng không được con ạ. Mẹ đã có chồng. Bác Phạm Chương cũng là một người rất tốt. Ông đã cưu mang mẹ suốt những tháng năm tù tội khắc nghiệt. Và cả những năm sau này. Ông cũng rất yêu mẹ và là chỗ dựa, là mái ấm của của đời mẹ. Mẹ rất yêu và biết ơn ông ấy. Con nghĩ mẹ phải cư xử thế nào cho phải đạo làm người?

Julia lại khóc. Bạch Nương nói:

-Hồi nhỏ, sư phụ dạy con về “duyên” về “nghiệp” về “nhân quả”, “luân hồi”… Nhiều người vẫn nghĩ những điều đó có vẻ gì thần bí, siêu hình. Nhưng giờ gẫm lại những biến động trong đời của mỗi chúng ta, mới thấy rằng đó là một chuỗi những sự ngẫu nhiên.

Con gặp bố Sơn cũng ngẫu nhiên, sư phụ gặp con cũng ngẫu nhiên, mẹ con gặp bác Phạm Chương cũng ngẫu nhiên. Và ngay cả việc mẹ con gặp Trần Cung cũng vậy. Nếu hôm đó bà bước ra khỏi quán cà phê sớm hơn một phút, thì chắc chắn sẽ không có cuộc gặp ấy. Và không có cuộc chạy trốn trên biển. Không có chuyện bố Sơn cứu con và giao con cho sư phụ để rồi sau này con định cư tại Mỹ.

Tôi, người chép lại câu chuyện này, lúc ấy chỉ muốn ngồi nghe. Và sẽ không nói gì. Nhưng khi Bạch Nương nói về sự ngẫu nhiên tôi lại nhớ tới Stephen Hawking và câu nói nổi tiếng: “Chẳng những Thiên Chúa chỉ chơi trò súc sắc, mà ngài còn ném chúng vào nơi chúng ta không thể tìm thấy” (Seems he not only “plays” dice, but he throws them where we can’t find them). Hawking muốn nói: Sự hình thành vũ trụ là ngẫu nhiên như vòng quay sấp ngửa của con súc sắc. Và tất cả những gì tồn tại trong vũ trụ cũng đều ngẫu nhiên như thế.

Tôi nói:

-Ngay cả câu chuyện này, lúc đầu tôi chỉ có ý định viết về một  con khỉ, bạn thân yêu của tôi thời thơ ấu đã chết vì máy bay giặc Pháp. Và sau này nó đã hóa thân là chính tôi, để thực hiện một mơ ước trùng phùng thần bí như cổ tích. Nhưng tình bạn siêu hình đó đã dẫn Bạch Nương bước vào đời tôi, rồi tiếp theo là bé Lâm Oanh, rồi đến Lâm Yến… Và câu chuyện đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Đã phá vỡ trí tưởng tượng của tôi, đã dẫn dắt tôi vào những ngẫu nhiên vô định, vô minh và vô thường.

Tôi mất dần quyền tác giả, quyền tưởng tượng và quyền dẫn dắt câu chuyện. Đến đây thì không phải tôi sáng tạo ra các nhân vật mà chính các nhân vật tự sáng tạo mình. Điều đó khiến tôi vừa thích thú, hạnh phúc vừa run sợ.

Và có vẻ như trong tương lai Julia sẽ tạo nhiều bất ngờ nhất. Tôi linh cảm cô bé sẽ phủ nhận nhiều thứ mà chúng ta vẫn tin tưởng. Chẳng hạn như tôn giáo, đức tin và cả nhân cách nữa. Julia sẽ là một nhân cách mới. Một trí tuệ mới.

Nhưng đó là trí tuệ gì?

Có lẽ câu trả lời cũng sẽ bắt đầu bằng một ngẫu nhiên khác.

Dường như Lâm Yến không hiểu hết những gì tôi vừa nói, nhưng bà rất vui và hạnh phúc vì có người đã nói về đứa con thân yêu của mình, cho dù đó là những lời mơ hồ và có phần xa lạ.

Bình luận về bài viết này