ĐÀO HIẾU – Nhật ký mèo (toàn văn)

GIẢI BÀY

Tôi sinh ra trong chiến tranh, nên không biết thực sự mình sinh vào ngày nào. Cái ngày ghi trong giấy khai sinh chỉ là giả.

Tôi lớn lên trong bom đạn, nên chẳng ai nghĩ tới chuyện tổ chức lễ sinh nhật, cho dù đó là sinh nhật giả.

Tuy nhiên, tất cả đều đã qua đi. Tôi đứng trên bờ nhìn xuống dòng sông, nhìn xuống những chiếc lá, những tăm cá, bóng chim, những cành củi mục… trôi đi… trôi đi… và không bao giờ quay lại.

Tôi cũng đã từng trôi đi như dòng sông này, qua bao thác ghềnh, rừng rậm, nhàn du  giữa những bình nguyên bao la, những những đô thị lộng lẫy, những đền đài uy nghi… từ Paris tới Moscow, Saint Petersburg, từ New York, South Dakota tới Kuala Lumpur, từ Berlin, Bruxelles tới Seoul, Seam Reap, từ Vạn lý Trường thành tới Ta Prohm…

Và giờ đây tôi đã về. Đã dừng lại. Tưởng được yên nghỉ, nhưng tôi lại gặp những đứa trẻ mồ côi bị xã hội loài người vứt bỏ. Những con mèo hoang mấy tháng tuổi, ngơ ngác, bơ vơ bên góc chợ, vỉa hè, bờ sông, bãi rác…

Những con vật lạc loài ấy đã dẫn tôi đến cái thế giới nghèo nàn, tối tăm, hèn mọn của chúng. Lúc đó tôi mới biết rằng: dù có đi khắp năm châu bốn bể, nhưng nếu không biết gì về những thế giới nhỏ nhoi, thầm lặng và cùng khổ quanh mình, thì cũng coi như chưa từng đi đâu cả.

Thế giới ấy không phải thiên đường cũng không phải địa ngục, càng không phải là một wonderland của cô bé Alice.

Thế giới ấy ở ngay cạnh loài người, ở bên rìa xã hội… vậy mà ít ai nhìn thấy.

Một thế giới hoang dã, thầm lặng, tự sinh và tự diệt. Một thế giới bụi bặm, lăn lóc, lang thang và điêu tàn. Một thế giới của những mèo con vất vưởng, vô thừa nhận, đói lạnh và mòn mõi.

Tôi đã bước vào thế giới ấy. Không thể dừng lại nữa. Không thể yên nghỉ nữa. I’m following you, where you are taking me to (*). Ông ngoại đi theo các con. Bất cứ nơi nào các con đưa ông đến. Không phải do tò mò như cô bé Alice, mà do những mối tình giữa tôi và lũ mèo cứ như cỏ dại mọc lên theo từng mỗi bước chân, tìm đến những mảnh đời hẩm hiu, cùng khổ.

…………………………………

(*) Lời bài hát.

Tôi sẽ dành phần đời còn lại của mình cho đàn con hèn mọn này. Tôi sẽ cứu vớt, nuôi nấng, bảo vệ chúng, cho dù chúng sơ sinh hay đã lớn, chúng khỏe mạnh hay đau yếu, chúng xinh đẹp hay xấu xí, chúng nguyên lành hay tàn tật.

Cuốn nhật ký này sẽ ghi lại tất cả những gì mà chúng tôi đã sống chung với nhau trong suốt những tháng ngày dài hạnh phúc và đau khổ, vui đùa và lo sợ, gặp gỡ và chia lìa. Ghi lại cả những khoảnh khắc hồi sinh và những phút giây vĩnh biệt.

Tôi vốn sinh ra không phải để nuôi mèo và để viết về mèo. Tuổi trẻ tôi đã vào đời mạnh mẽ như một dòng sông tuôn chảy và phá phách. Tôi cũng đã viết nhiều tác phẩm về sự tuôn chảy và phá phách ấy. Nhưng “MÈO” cũng là một đề tài lớn đầy bi kịch xót xa.

Đây là tác phẩm thứ 3 tôi viết về mèo.

Ngày nào còn sống với chúng, tôi sẽ còn viết về chúng.

Ngày 10 tháng 3 năm 2020.

ĐÀO HIẾU

TÁI BẢN LÀN THỨ NHẤT

Tháng 6 năm 2020

1.KẺ TRỘM

ĐÊM GIAO THỪA

(15/2/2018 – 30 TẾT)

Cả thành phố đều lánh mặt. Những dãy nhà im lìm. Những hàng quán đóng cửa. Tôi gọi một cậu thợ hồ 22 tuổi, không biết quê ở đâu nhưng Tết nó không về. Nó vẫn ở trong cái phòng trọ nhỏ xíu như hộp quẹt.

-Chí ơi! Con mèo sao rồi?

Đó là con mèo tôi đã cho nó cách đây ít lâu. Nó sợ mèo chạy mất nên xích trong cầu tiêu. Tôi nói: “Coi chừng mèo cảm lạnh”. Rồi cho nó con cá. Chàng trai trẻ nói: “Bác ơi, bác đừng cho nó ăn sang quá, sợ nó quen, mai mốt con cho ăn cơm, nó chê.” Tôi bảo nó lấy một nửa con cá trộn cơm rồi cho ăn, sợ nó ở trong cầu tiêu sẽ bị cảm. Nhưng ba ngày sau, tôi đến thăm, đã thấy mèo chạy chơi trong phòng.

Chiều ba mươi Tết tôi lại đến thăm, thấy chú mèo con có đeo sợi dây chuyền nhỏ xíu, đính cái lục lạc.

Thấy tôi, nó chạy đến liếm ngón tay rồi đi vòng vòng quanh chân người chủ mới. Tôi hỏi:

-Mèo của bé Nhu sao rồi?

Nhu là chủ một cửa hàng nhỏ bán bia và nước ngọt. Cách đây bốn tháng, tôi cũng có cho cô ta một con mèo con, cô cưng mèo nên nó cũng được sống yên ổn.

Trước Tết nửa tháng, tôi đi ngang nhà, ghé thăm. Chồng của Nhu nói: “Chú ơi, hôm qua vợ con sinh, con đưa vợ đi đẻ lúc hai giờ sáng, đến chiều hôm sau mới về thì con mèo mất tiêu rồi.”

Mèo con cũng giống như trẻ nhỏ: nhà vắng người, không ai cho chúng ăn, chúng ra ngoài tìm cái ăn và bị bắt mất, bị xe cán hoặc bị chó cắn chết. Vợ chồng Nhu xin tôi một con khác. Tôi thường lui tới thăm chừng.

Sáng hôm qua, tôi đi ngang nhà Nhu, thấy cửa khoá ngoài. Hỏi Chí thợ hồ, thì nó nói: “Hai vợ chồng về Tây Ninh rồi, có nhờ con cho mèo ăn”.

Nhưng tôi vẫn không yên tâm. Ghé thăm, thấy một cái mặt nhỏ xíu thấp thoáng sau khe cửa. Tôi xuống xe, gọi. Nó kêu “meo meo” rối rít. Tôi chạy ra siêu thị mua cá, rồi đến tiệm thú y mua thức ăn khô.

Nó đói quá, vừa ăn vừa rên gừ gừ, thấy tội. Ăn như cọp ăn mồi, nhai luôn cả đầu cá, xương cá.

Tôi hỏi Chí:

-Bao giờ thì vợ chồng Nhu về?

-Chiều nay.

Nhưng gần giao thừa, tôi đến tiệm tạp hóa mà vẫn tối om. Cửa vẫn khóa ngoài.

Tôi đưa xe lên lề. Cúi người tìm cái lỗ nhỏ dưới cánh cửa sắt và gọi “meo meo” nhưng không thấy rục rịch.

Ngay lúc ấy có tiếng nổ đì đùng ở đâu phía cầu treo Phú Mỹ hay hầm Thủ Thiêm gì đó.

Giữa lúc pháo hoa nở xoè trên bầu trời rực rỡ, thì có một ông già tay cầm mấy con cá, lom khom, ghé mặt sát khe cửa, lòng cứ thấp thỏm, sợ mấy chú dân phòng tưởng lầm là kẻ trộm.

2.CHUNG MỘT

NỖI HIU QUẠNH

(16/2/2018 – mồng Một Tết

năm Mậu Tuất)

Hôm nay trời Sàigòn âm u và se lạnh. Những con mèo không biết Tết nên chúng vẫn muốn ra vườn chơi lúc 6 giờ sáng. Tôi cho chúng ra khỏi phòng nhưng biết là chúng không ra vườn được vì không ai mở cổng.

Gần 9 giờ, con cháu về chúc Tết. Lifestream qua Mỹ cho mèo Xíu gặp cháu nội tôi bên đó, nhưng nó chẳng biết gì cả. Mấy hôm trước nó bị đau mắt, tôi đã chữa, nhưng hôm nay mắt nó lại đỏ.

Buổi chiều trời lạnh hơn. Tôi buồn, lấy xe đi về hướng Nhà Bè, ngang qua những con đường quê, nơi trước đây tôi và một nhân vật nữ của tôi (nhân vật Ngọc trong tác phẩm “Đốt Đời”) thường la cà những quán cà phê bình dân ven sông để nghe cô bé kể chuyện đời mình.

Chiều mồng Một Tết, quán đóng cửa, chỉ còn lại dòng sông và rừng dừa nước hai bên bờ. Ngọc ơi! Mới đó mà đã gần hai năm rồi! Bây giờ con đang nằm dưới lòng đất. Con đã đọc tác phẩm Đốt Đời của chú chừng bốn tháng, rồi thì con chết. Bệnh ung thư đã cướp mất con năm 21 tuổi.

Chiều nay chú buồn quá, chú chạy xe một mình trong cơn gió lạnh từ dòng sông, từ rừng dừa nước lùa tới.

Không bao giờ chú được gặp con nữa. Con còn quá trẻ, vậy mà con đã ra đi trước. Hồi đó bà chủ quán cà phê già còm, quê mùa trên bến sông ấy đã nói: “Hai cha con giống hệt nhau”. Cả hai chú cháu mình đều cười. Rồi chú nói: “Không phải hai cha con đâu bà ạ. Cô bé này là cháu ngoại tôi đó.” Con nghe nói vậy đã cười ngặt nghẽo, rồi “ký” vào đầu chú.

Bây giờ thân xác con chắc chẳng còn lại gì trong lòng đất. Chú ở lại nơi này với câu nói xót xa của con:

”Đau quá con chịu không nổi. Thuốc giảm đau không còn tác dụng nữa. Con muốn chết nhưng không đủ can đảm để tự tử, chú hãy mua thuốc độc cho con uống đi, nhưng đừng cho con biết.”

Rồi chừng một tháng sau, con chết.

*

Gió lạnh tạt vào mặt, nhưng tôi muốn phóng xe nhanh. Đường vắng. Tôi đi qua những vùng hoang vu. Rồi đến rìa thành phố. Rồi gặp lại những cao ốc sừng sững. Gió làm nhoà những giọt nước mắt. Ngọc, một nhân vật phụ trong tác phẩm của tôi, nhưng ngoài đời, cô bé ấy là nhân vật chính.

Chiều nay, tôi chỉ còn lại nỗi cô đơn. Cô đơn là điều đáng sợ nhất của kiếp người. Nó tàn nhẫn hơn cả sống và chết. Nó bàng bạc trong đời và kết thúc bằng một chuyến ra đi. Ra đi cũng cô đơn. Một mình. Lặng lẽ. Và lạnh lẽo.

Con đã gặp nỗi cô đơn ấy năm 21 tuổi.

Rồi sẽ đến lượt…

Tôi sống như chạy trốn nỗi cô đơn. Chạy trốn trong tình yêu của những con mèo, nhất là mèo hoang, những đứa trẻ cũng cô đơn như tôi. Không cha mẹ, không chốn nương thân, không có gì để ăn ngoài những thứ hiếm hoi nhặt nhạnh từ rác rưởi, đường phố…

Tôi và mèo đều là chúng sinh, đều vô thường, đều chung số phận, chung một bi kịch, chung một nỗi hiu quạnh…

Tôi muốn dành phần đời còn lại cho chúng. Tôi chỉ có chúng và chúng cũng chỉ có tôi. Mỗi tối, chúng tôi hẹn nhau ở gốc cây trong vườn. Những tiếng meo meo đòi ăn. Những tiếng meo meo mừng rỡ. Ông ngoại ơi! Cám ơn ông ngoại.

Ông ngoại cũng cám ơn các con. Cám ơn các sinh linh nhỏ bé, yếu ớt giữa cuộc đời đầy bất trắc.

3.TIẾNG KHOAN

NHƯ GIÓ THOẢNG NGOÀI

(18/2/2018 – Mồng Ba Tết)

Tôi nuôi mèo mấy năm rồi. Mèo của tôi thường đi vệ sinh trong cái máng chứa cát khử mùi nên rất sạch.

Dạo gần đây chúng bắt chước con người nên thường leo lên bồn cầu đi tiểu.

Đang “lướt web”, hễ nghe tiếng nước róc rách nhẹ nhàng là tôi biết con Vừng hoặc con Mướp đang đi tiểu, vì mèo đực thường đái trên vách trong của bồn cầu, nên nước tiểu chảy chậm, phát ra tiếng kêu róc rách nhẹ nhàng, du dương.

Còn nếu nghe tiếng nước chảy “tồ tồ” là tôi biết ngay: đích thị phu-nhân-bảy-con Đào Thị Xíu (nghệ danh: Ngọc Trinh) đang đái. Bởi vì do cấu tạo và vị trí của bộ phận sinh dục nữ ở gần đuôi nên nước tiểu rót thẳng xuống ngay cái lỗ chứa nước trong bồn cầu, tạo ra một giai điệu hùng tráng như bản sonate số 23 của Beethoven.

Nguyễn Du cũng đã có thơ  rằng:

Tiếng khoan như gió thoảng ngoài

(mèo đực đái)

Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa (mèo cái đái – KIỀU).

4.NGỦ QUÊN

TRONG HOÀNG HÔN

(20/2/2018 – Mồng 5 Tết Mậu Tuất)

Hôm qua, Chí thợ hồ, gọi điện thoại:

-Chú ơi! Mèo không có gì ăn. Chú chỉ cho con tiệm thú y để con mua đồ ăn khô cho nó.

Tôi cho địa chỉ, nhưng mới mồng 4 Tết, tiệm chưa mở cửa.

Tôi hẹn trước cổng nhà, đưa cho nó một bịch thức ăn khô và dặn nó cho mèo uống nước.

Bịch thức ăn đó một con mèo con có thể ăn được một tuần lễ.

Buổi chiều tôi đi ra phố về, thấy có con mèo con bị xe cán chết giữa đường trông thảm thương quá. Tôi gọi điện cho Chí.

-Có con mèo bị xe cán ngay đường ra chợ PT, con coi lại mèo, còn đó không?

-Không sao đâu chú. Nó đang chơi với con nè.

Tôi đưa lũ mèo nhà lên sân thượng rất sớm, cho chúng ăn trên đó để ngăn chúng ra đường.

Như thường lệ, Mướp nhảy lên võng nằm trên ngực tôi, chờ tôi đưa võng. Vừng thì nằm dưới đất, có vẻ buồn. Xíu-bảy-con thì đã là phu nhân, không thích cái trò đưa võng nên thu mình ở một góc sân, lim dim ngủ.

Bất ngờ Vừng cũng phóng lên võng, nằm bên hông tôi, giống như hai bà vợ giành chồng (thực ra cả Vừng và Mướp đều là mèo đực).

Tôi vừa đưa võng vừa ru chúng:

“À ơi, trồng trầu thì phải khai mương. Nuôi mèo thì cũng phải thương cho đều.”

Cứ thế mà đong đưa, đong đưa… rồi ba ông cháu ngủ trong ánh hoàng hôn tắt dần, tắt dần…

*

Sáng hôm sau, cho mèo ăn no xong thì chúng biến mất. Tôi không biết làm gì, bèn lấy cây ghi-ta, lau bụi bặm (vì gần nửa năm nay không đụng tới nó). Tôi chơi vài khúc dân ca Nga, một cái prélude cung Ré thứ của J.S.Bach, thấy cũng không đến nỗi vấp váp lắm, nhưng vì lâu quá không chơi nên đầu ngón tay đau buốt.

Khi bỏ cây đàn xuống, chợt nhớ tới con mèo hoang bị xe cán chết hôm qua, tôi giật mình chạy ra đường kiếm mấy con mèo.

Xíu thì đang nằm ngủ dưới một khóm hoa trong vườn. Nó nằm ngửa, chỏng “bốn vó”, giống như cách Tăng Điểm ngày xưa nằm ngủ ở đền Vũ Vu… ung dung, tự tại, vô ngã và đạt đạo.

Ở cuối vườn thì Mướp đang nằm phủ phục trong tư thế rình mồi. Một con chim chào mào đang tìm sâu trên nhánh hoa hay một chú cu cườm đang say sưa gáy?

Tôi lom khom dưới giàn bầu. Mướp thấy tôi nhưng phớt lờ. Nó đang phục kích. Vả lại nó biết tôi cưng nó, chẳng bao giờ dám đụng tới cái móng chân nó. Nó nhích tới, nhích tới… rồi một đường kiếm loé lên. Không phải là chim sẻ, cũng không phải cu cườm, mà là một con mèo hoang trạc tuổi nó.

Hai đứa vật nhau. Lăn lộn trên cỏ. Tôi chạy đến thị sát mặt trận. Hai con mèo vừa đánh nhau vừa gào lên. Còn Mẹ Xíu thì cứ “điềm nhiên ngoạ hoa âm”, chỏng bốn vó dưới khóm cây. Lông thì trắng nõn, đến nàng Bạch Tuyết còn phải ghen tỵ.

Năm nay Mướp 16 tháng tuổi và không biết đây là trận đấu thứ mấy của chàng trai này. Nó đang bắt chước mẹ Xíu bảo vệ lãnh thổ của nó, không phải chỉ ngôi nhà, mà còn vườn rau và cả nhánh sông nữa.

Nó đang lớn, đang trưởng thành, như một chàng trai đẹp đẽ, cường tráng. Nhưng nó vẫn là cháu ngoại tôi, vẫn thích phóng lên võng nằm lim dim trên ngực tôi, để được tôi vuốt ve và hát ru trong mỗi hoàng hôn.

5.“ÂM THANH

VÀ CUỒNG NỘ”

(23/2/2018)

Chiều hôm qua đi phố về, thấy nhà hàng xóm giăng đèn, kết hoa, treo bong bóng đỏ chói.

Bàn tiệc bày kín cả mặt đường, trên vỉa hè ngổn ngang những loa âm thành to như cái tủ, giàn trống khí thế như một ban nhạc hoà tấu…

Tôi cả kinh và run sợ vì biết tối nay chắc chắn sẽ bị tra tấn tới khuya vì một thứ âm nhạc tả-pín-lù và những giọng ca bò rống.

Tuy nhiên, đau khổ nhất lại là lũ mèo hoang của tôi. Chúng khiếp đảm, tưởng rằng đang có một cơn địa chấn hay một cuộc bạo loan, hay ma quỷ hiện hình. Chắc chắn chúng không biết đó là bữa tiệc, càng không biết đó là “một thứ chuyện ồn ào do những thằng ngu gào thét những điều vô nghĩa, đầy âm thanh và cuồng nộ”. (It’s a tale told by an idiot, full of sound and fury, signifying nothing – Shakespeares, Macbeth). (*)

Thường ngày, lũ mèo hay đứng xếp hàng trên bờ tường, hoặc mai phục trong bụi cây, dưới những khóm hoa, trong tán lá, có đứa thì bồn chồn vì đói nên vừa nghe tiếng mở cổng là đã chạy đến, gào lên rất tội nghiệp.

Tất nhiên là chúng chẳng biết gì về Shakespeares, và tôi chỉ nói khoác cho vui để chế diễu những màn phô trương giàu có thường xảy ra của hàng xóm.

Hình như đó là một bữa tiệc sinh nhật.

Cũng giống như những bữa tiệc khác, có khi kéo dài đến nửa… thế kỷ.

Tôi đóng của phòng kín mít. Xíu, Vừng và Mướp đều vào vị trí. Xíu nằm trước computer của tôi, (tôi phải lót một tấm nệm mỏng thì nó mới chịu nhảy lên nằm), Vừng thì nằm trước tủ sách, còn Mướp thì phải đợi tôi lên giường trước, nó mới chịu nhảy lên, chui vào nách tôi và gối đầu lên vai trái.

Bốn ông cháu nằm coi ti-vi, chương trình Thế Giới Động Vật… để chờ cho “những âm thanh và cuồng nộ” ngoài kia kết thúc.

Mười giờ đêm, tôi ra cổng, thấy những người phục vụ đã bắt đầu dọn dẹp bàn tiệc nhưng lũ thanh niên lại chuyển sang nhảy nhót và ban nhạc vẫn chơi như điên.

Tôi lấy cây đèn pin, đi len lỏi qua đám đông đang khiêu vũ (chúng nhảy nhót giữa lòng đường) để tìm những con mèo hoang, vì tôi vẫn hy vọng chúng đang núp đâu đó chờ tôi.

Thường trong những tình huống như vậy một vài con mèo hoang đói quá cũng mạo hiểm trốn trên các nhánh cây hay bụi rậm.

Tôi rọi đèn lên lùm me. Không có. Rọi dưới những khóm hoa lài. Không có. Giàn mướp. Không có.

Lúc ấy, với tôi không gì quan trọng bằng cơn đói của những chú mèo con mồ côi, huống chi là thứ tiệc tùng phô trương của đám quan quyền tại một vùng lãnh thổ có tên là “An Nam đô hộ phủ” này.

Tuy tìm không thấy mèo và không biết chắc là đêm nay chúng có về không, nhưng tôi cũng quyết định đem bữa ăn cho chúng.

Bạn hãy tưởng tượng giữa một đám người sang trọng, đèn đuốc sáng trưng, nước hoa thơm phức… đang nhảy nhót trong tiếng nhạc xập xình, thì có một lão già ba trợn, mặc quần xà-loõng, áo thun ba lỗ, tay cầm một cái khay nhựa đựng cơm trộn cá và thức ăn khô chế biến sẵn, ung dung, thong thả đi, như vào chốn không người, tiến tới gốc cây nơi vườn rau gần đó để đặt khay thức ăn lên cái bục xi măng mà lão đã xây sẵn dành cho mèo.

Hy vọng đến gần sáng, khi đám đông biến mất, thì lũ mèo hoang sẽ trở về để ăn bữa cơm đạm bạc.

……………………………….

(*) Đoạn này dịch thoát cho hợp với mèo.

6.NHỮNG MỐI TÌNH

(24/2/2018)

Hôm nay đi ăn sáng về, ngang qua cửa hàng của bé Nhu, thấy mở bán trở lại sau nhiều ngày về quê ăn Tết. Hai con mèo con ngồi trên hai thùng bia, một đứa nhìn ra đường, một đứa nhìn vô nhà.

Tôi muốn ghé lại chơi với chúng giây lát nhưng vì bé Nhu đã về thì tôi không phải lo lắng gì nữa nên tôi chạy xe đi, mà cứ ngoái lại nhìn. A Di Đà Phật, nếu bé Nhu không nhận nuôi thì giờ này chúng vẫn còn rúc trong đống gỗ mục, và tôi không thể nhìn thấy chúng, để chắc rằng chúng còn sống và bình yên.

Mấy ngày Nhu về Tây Ninh ăn Tết, mỗi lần tôi ghé cửa hàng cho chúng ăn thì cả hai con đều chui ra theo lỗ cửa. Tôi ngồi dưới vỉa hè, chúng chui vào giữa hai chân tôi và ăn thức ăn khô giòn tan như mình nhai bắp rang.

Tôi vuốt ve chúng, hai tay vuốt hai con. Mèo mướp chính cống. Lông mịn, mềm mại và ấm.

Tôi thích hơi ấm ấy, vừa vuốt vừa nắn nót cái bụng lép, vừa gãi lưng cho chúng. Tôi rất vui vì thấy chúng ăn ngấu nghiến, chắc là rất ngon, rất thích, rất “đã”. Tôi hạnh phúc vì đã đem niềm vui đến cho hai đứa hài nhi này, không gì có thể đổi được niềm hạnh phúc ấy.

Cho nên sáng nay đi ngang qua cửa hàng, thấy chúng ngồi trước cửa, tự nhiên cứ nhớ cái cảm giác mịn màng của bộ lông, nhớ cái hơi ấm dễ thương của vùng bụng.

Những ai còn thanh niên, đang có người yêu, đều trải qua những cảm giác tuyệt vời của thứ tình thiêng liêng ấy. Thức cũng nhớ, ngủ cũng nhớ, xa cách cũng nhớ mà gặp nhau cũng nhớ.

Chỉ cần nghe giọng nói trong điện thoại là lòng đã rung chuyển, chỉ cần nhìn thấy cái dáng từ xa là thương ơi là thương, đừng nói chi tới chuyện cầm tay, chuyện hôn nhau…

Bây giờ già rồi, tình yêu cũng tàn héo. Con cái đứa nào cũng có gia đình của chúng, cháu nội, ngoại cũng đã lớn, chúng chơi với bạn cùng lứa, không chơi với mình nữa.

Những người già, vì thế, buồn biết bao! Cô đơn biết chừng nào! Nhất là những người không thích âm nhạc, bóng đá hay văn chương, chữ nghĩa…

Tôi thì khác, tôi biết đủ thứ và thích đủ thứ nên cũng không buồn lắm.

Và quan trọng nhất là có mèo.

Mỗi con mèo có mỗi tính cách riêng, lối biểu hiện tình cảm riêng. Có con rất tinh tế, đằm thắm, con thì bẽn lẽn, nũng nịu, thơ ngây… nhưng cũng có con dữ dội, khó hiều: vừa âu yếm rên rỉ, lim dim đó, chợt quay lại đớp một phát chảy máu đầm đìa. Đó chính là Xíu Ngọc Trinh. Dường như từ ngày tôi đem Vừng từ chốn giang hồ về, nó ngấm ngầm ghen tức nên thỉnh thoảng bộc lộ ra như thế.

Tôi hiểu tâm trạng ấy nên tuy máu chảy ròng ròng mà bật cười sảng khoái. Xíu mới thật là “đàn bà”, yêu như thế mới là yêu. Dù đã “bảy con” nhưng vẫn là một phu nhân quyền quý cao sang và xinh đẹp.

Xíu, Vừng và Mướp, mỗi đứa yêu mỗi cách, tuy khác nhau mà cùng một tấm chân tình trong sạch và không bao giờ phản bội.

Dù là 16 tháng tuổi như Mướp, hay “bảy con” như Xíu Phu Nhân thì vẫn đằm thắm, thiết tha. Dù thích ngủ trên ngực tôi hay thích rúc vào nách, tựa đầu vào vai hay vòng tay ôm lấy cánh tay tôi mà ngủ, thì vẫn là người tình bất diệt.

Vừng xuất thân là trẻ bụi đời, nên tuy về ở với tôi đã hai năm nay nhưng vẫn còn chất hoang dã. Nó không thể là một minou câlin như bé Xíu được. Nó không hay biểu lộ tình cảm như Mướp, nó cũng không “sang chảnh” như Xíu phu nhân. Nó rụt rè, hay tủi thân, hay giật mình sợ hãi, nhưng khi chỉ có mình nó và tôi thì nó rất muốn gần gũi.

Khi tôi nằm trên giường, nó leo lên ngực, rồi rúc vào cổ tôi, liếm trên má, hôn hít trên gáy, trên vành tai…

Mèo hoang thì luôn cảnh giác với con người, nhưng trong thâm tâm, chúng vẫn mong tôi, nhớ tôi, nhất là những lúc chúng quá đói, chúng không sợ tôi nữa. Nhiều khi chúng chạy thẳng vô nhà, leo lên bàn phòng khách. Tôi đành phải dọn bữa ăn cho chúng như VIP và ngồi canh cho chúng ăn hết bữa.

Đó là những kỷ niệm mà lúc nào tôi cũng nhớ, lúc nào tôi cũng sợ phải rời xa.

Nhiều khi tôi cũng muốn đi Ấn Độ hay Ai Cập chơi, nhưng không yên tâm vì chưa bảo đảm được an toàn tính mạng cho những con mèo hoang khi tôi vắng nhà.

Giờ đây, dù là mèo nhà hay mèo hoang, chúng cũng là con cháu tôi, người yêu của tôi, bạn tôi… mà nếu mất đi, tôi sẽ không bao giờ tìm lại được. Tôi không giống  những người khác: hễ mất chó, mèo thì bỏ tiền ra mua một con khác về là xong.

Tôi không coi chó, mèo là món đồ chơi. Vì thực sự chúng không phải là đồ chơi. Chúng là người thân của tôi. Nếu một đứa con của bạn không may qua đời, bạn có thể bỏ tiền ra, mua một đứa con khác được không?

Những vật nuôi như mèo, chó cũng thế. Mỗi con có một mối liên hệ đặc biệt, một tình sử đặc biệt, những kỷ niệm đặc biệt, không ai có thể thay thế được.

Mấy năm trước có một con mèo hoang chừng một tháng tuổi đến trước cổng nhà tôi. Lúc đó trời chạng vạng. Nó đói và lạnh. Nó run rẩy. Tôi ủ nó trong tay và cho nó ăn. Rồi nó cứ quấn quýt bên chân, không chịu đi. Nhưng tôi không đem nó vào nhà được vì bị con Xíu đuổi đánh. Nó đành phải sống trong bụi rậm và chỉ tìm gặp tôi khi đói.

Cứ thế tôi nuôi nó hơn một năm. Đặt tên nó là Mì.

Nó trở thành một chàng trai đẹp đẽ và hiền lành. Ngày hai bữa, trưa và chiều Mì xuất hiện trên đầu tường để lãnh con cá nục hấp. Đôi khi nó để cho tôi bế, ôm ấp trên ngực, vuốt ve trìu mến.

Rồi có một ngày, bé Mì không về nữa. Tôi nghĩ chắc nó bị bọn trộm bắt ăn thịt. Tôi đợi nhiều ngày vẫn không thấy nó. Cứ mỗi lần ra cổng, nhìn lên đầu tường, thấy trống không là tôi khóc. Ngày nào cũng khóc, thương xót, đau khổ, rã rời.

Trong bữa ăn, tôi nhìn chén cơm, buông đũa và khóc. Khóc ràn rụa, uất nghẹn suốt cả tháng trời…

Lũ con tôi nói: “Ba ơi, nó chỉ là một con mèo thôi mà, có gì phải đau khổ đến vậy?”

Tôi nói: “mèo thì cũng là sinh vật như người, cũng có tình cảm, cũng biết đau khổ, nhớ thương, biết buồn, vui, hờn giận, tủi thân…  Ba đã nuôi nó từ tấm bé, như con mọn. Nó lại là đứa trẻ bất hạnh vì không được sống trong một mái nhà. Nó phải sống ngoài bờ ngoài bụi…

Và điều quan trọng nhất là: trên thế gian này chỉ có một con Mì duy nhất của ba mà thôi. Không ai có thể thay thế nó được”.

Tôi vẫn thường nghĩ: nó là hiện thân của mẹ tôi đã chết trong cô đơn và đau khổ.

Giờ đây, ngồi viết những dòng này, tôi vẫn không cầm được nước mắt.

Những thế hệ mèo hoang vẫn còn đó, đang lang thang đâu đó ngoài bờ bụi, ngoài đầu đường xó chợ, hang hốc, cống rãnh. Ai cũng bảo chúng rất dơ. Tôi biết. Nhưng vì thương chúng nên tôi không thấy dơ. Tôi vẫn vuốt ve, ôm ấp chúng, vẫn bị chúng cắn, chúng cào đầy thương tích. Nhưng tôi nghĩ dẫu cho tôi có chết vì bệnh dại hay những bệnh lây nhiễm nào đó tôi vẫn cam lòng. Chúng vô tội. Và chúng cũng như tôi: một kiếp phù du, hiu hắt trong cõi vô thường.

7.MỘT NGÀY CỦA TÔI

27/2/2018

4 giờ sáng

Thức dậy, nhìn quanh xem có con mèo nào còn ngủ không. Thường thì Mướp vẫn còn nằm bên vai trái tôi, có khi gác một tay và một chân lên ngực tôi, có khi quay mặt vào tường, có khi nằm ngửa, chỏng gọng. Xíu và Vừng đều đã thức dậy từ 3 giờ sáng. Xíu đã “có tuổi” nên chững chạc. Nó ngại đánh thức tôi nên cứ nằm phục sát bên cạnh, chờ tôi thức dậy. Còn Vừng mới hơn 2 năm tuổi (tương đương với một chàng trai tuổi teen) nên hiếu động, cào cửa liên tục, đòi ra.

Tôi đem tất cả 3 con mèo lên sân thượng cho chúng hít thở khí trời, rồi khoá cửa cầu thang cho chúng khỏi xuống tầng trệt. Vì nếu chúng xuống tầng trệt thì lúc 5 giờ, người nhà mở cửa đi tập thể dục, chúng sẽ lẻn ra đường. Đó là giờ hoạt động của bọn trộm mèo, chó. Cách đây một năm chúng đã đánh bã một con chó berger 35 triệu của nhà hàng xóm lúc 5 giờ sáng ngay trước mặt chủ nhà mà không ai làm gì được chúng.

4 giờ 30 sáng

Nấu nước pha trà xong, làm vệ sinh cá nhân. Vừa uống trà vừa lên mạng xem tin tức, trả lời thư độc giả.

6 giờ sáng

Đi tập thể dục trong một tiếng đồng hồ, xong ăn sáng.

Về thả mèo cho chúng ra sân, ra vườn rau chơi tự do. Trong lúc chúng chơi thì tôi dọn vệ sinh cho chúng (hốt cứt mèo chẳng những là nghề mà còn là luận án tiến sỹ của tôi, vì thế vừa hốt cứt vừa suy nghĩ về ý nghĩa chính trị và triết học của công việc đó.)

9 giờ sáng

Ra vườn rau lấy cái khay đựng thức ăn của mèo hoang vào và gom tất cả các dĩa thức ăn của mèo nhà, rửa sạch cho bữa ăn kế tiếp.

Quét căn phòng riêng, dọn xương cá và thức ăn thừa, lau phòng, lau toa-lét.

12 giờ trưa

Cho mèo ăn. Nghỉ trưa khoảng 1 tiếng đồng hồ.

2 giờ chiều

Xem ti vi chương trình Thế Giới Động Vật hoặc BBC Earth, National Geographic hoặc phim truyện Mỹ.

3 giờ chiều

Thỉnh thoảng chơi đàn, thường chơi nhạc không lời.

4 giờ chiều

Lấy xe đi vòng vòng hoặc đi nhậu lai rai. Nếu không nhậu thì ghé các nhà nuôi mèo (do tôi cho). Thăm mấy đứa cháu ngoại, thỉnh thoảng đem thức ăn cho chúng.

6 giờ chiều

Ăn cơm. Cho Xíu, Mướp và Vừng ăn chiều, xong nhốt chúng lại vì chúng hay ra vườn rình đuổi mèo hoang, khiến chúng không dám về.

Làm thức ăn cho mèo hoang gồm cơm trộn cá, thức ăn khô và những thứ mà mèo nhà chê. Mèo hoang thầu hết sạch.

7 giờ 30 tối.

Đem thức ăn cho mèo hoang. Chúng về không đều. Lúc thì 2 con nhỏ (ít khi vắng mặt), lúc thì 4 con (2 con lớn đứng đợi cho hai con nhỏ ăn xong thì chúng mới ăn phần còn lại. Lúc thì về sáu bảy con, tôi phải đi lấy thức ăn thêm.)

Nhưng cho mèo hoang ăn không phải chỉ đem đặt khay thức ăn xuống là xong. Phải cầm cây đèn pin để xem chúng có giành ăn không, thì mình can thiệp (bênh con nhỏ). Và quan trọng nhất là canh lũ chó hoang, thỉnh thoảng chúng từ đâu ghé đến, đuổi mèo chạy tán loạn và ăn sạch bách trong một phút.

Nói tóm lại: nuôi mèo kiểu như tôi, hàng ngày phải làm đủ thứ chuyện, phải đối phó với nhiều “kẻ thù” để vừa bảo vệ tính mạng lại vừa bảo vệ bữa ăn của chúng.

8 giờ 30 tối

Mọi việc tạm xong. Tôi lên sân thượng bế từng con mèo xuống phòng riêng, cho mỗi con vào vị trí để chúng ngủ.

Ví dụ như hôm nay, đáng lẽ giờ này là  tôi phải lót một tấm nệm mỏng trước computer cho phu nhân Xíu ngủ, nhưng vì phải ngồi viết bài và post bài lên FB nên bắt phu nhân đợi lâu quá. Nó bèn nhảy lên nằm chắn ngay trước mặt tôi, che khuất màn hình, rồi lấy tay khều bàn phím, không cho tôi gõ. Tôi hất tay nó mấy lần nhưng không được nên đành phải vuốt ve, âu yếm, trổ tài tán gái (gia truyền) năn nỉ ỉ ôi bằng những lời đường mật.

Nó lim dim mắt, ra vẻ “chịu đèn”. Bất ngờ, quay lại đớp một phát, không mạnh lắm nhưng cũng để lại trên cổ tay một dấu răng và một giọt máu.

Hiện giờ thì nàng đành nhượng bộ, bỏ lên giường ngủ tạm, nhưng khi tôi làm xong thì dứt khoát phải mời phu nhân về chỗ ngủ quen thuộc của mình.

8.ÔNG NGOẠI ĐI VẮNG

12/3/2018

Đi Hà Nội một tuần, về nhà, mấy con mèo hoang bị thất lạc. Xách đèn pin đi tìm từng bụi cây, gặp được một con lang-đen-trắng, đưa khay thức ăn dụ một hồi mới dẫn được nó trở về chỗ cũ, ngay dưới gốc cây bàng. Nó ăn chậm, vừa ăn vừa phòng thủ, lấm lét nhìn xem có phải “cố nhân” không.

Đêm hôm sau, nó dẫn thêm một con mèo vàng. Hai đứa đứng ăn rụt rè.

Tôi vẫn chưa tìm thấy hai con mèo con (chừng 4 tháng tuổi). Chúng là những đứa đáng yêu nhất. Một con tam thể và một con vàng. Đó là hai con mèo hoang đầu tiên tôi nuôi từ bé, lúc chúng chừng một tháng tuổi. Chúng ở trong đống gỗ mục và tôi thường lén đem thức ăn cho chúng, bị chủ nhà xách cây ra đánh. Chúng đã quen hơi tôi và thường reo mừng khi nghe tiếng mở cổng. Chúng hay xáp lại kêu rối rít. Nhiều khi thấy chúng đói quá tôi không kịp đem thức ăn ra gốc cây mà đặt ngay dưới chân, nhưng chúng không sợ. Chúng ăn ngấu nghiến, ăn xong còn dụi mặt vào bàn chân tôi. Vậy mà đã năm ngày nay, tôi đi tìm, không thấy.

Ngày kế tiếp, có thêm một con mèo mun ở đâu cũng chạy tới. Nó không chê gì cả. Đầu cá nục có mấy cái xương rất cứng nhưng nó nhai ngon lành.

Đêm qua tôi vừa mở cổng đã nghe tiếng meo meo quen thuộc của hai đứa trẻ mẫu giáo. Đó là hai đứa cô nhi mà tôi đi tìm suốt cả tuần qua.

Tôi mừng quá, ngồi xuống, gọi chúng lại. Chúng lăng xăng, cuống cuồng:

-Ngoại ơi! Ngoại ơi! Ngoại đi đâu bỏ con lâu quá vậy?

-Ngoại xin lỗi.

Rồi tôi đặt khay thức ăn dưới gốc cây, lập tức quay vào nhà lấy thêm hai con cá dành riêng cho chúng.

Lũ mèo hoang lớn cũng biết tôi cưng hai đứa nhỏ nên dạt ra chung quanh, đứa nằm, đứa ngồi, chờ cho lũ em chúng ăn xong thì mới xáp vô ăn phần còn lại.

Hai đứa trẻ còn sống là điều rất quan trọng đối với tôi, vì chúng còn quá bé, không thể tự săn mồi và cũng không có khả năng tự vệ, nên cả tuần qua tôi cứ nghĩ chúng đã chết hay trôi dạt đâu đó, vất vưởng như những đứa trẻ đi ăn xin đầu đường xó chợ.

Đêm qua tôi rất vui vì lũ mèo được toàn vẹn và tôi đã lập lại trật tự cũ, thói quen cũ.

Và nhất là mỗi tối, khi mở cổng, tôi lại được nghe tiếng gọi thơ ngây, trìu mến: “Ngoại ơi! Ngoại ơi!”

9.TUỆ NHÃN

(19/3/2018)

Người bình thường nhìn ngoại giới chỉ thấy cây cối, nhà cửa, xe cộ, người đi qua lại.

Nhưng ông bác sỹ nhìn đâu cũng thấy vi trùng, ông hoạ sỹ nhìn đâu cũng thấy bố cục và đường nét. Người đánh số đề nhìn con chó thấy số 11,51,91, nhìn con bướm thấy số 19,59,99. Doanh nhân nhìn đâu cũng thấy cơ hội kiếm tiền, anh chàng có máu dê nhìn đâu cũng thấy gái đẹp.

Còn tôi, nhìn đâu cũng thấy mèo.

Đám người cao tuổi đi bộ buổi sáng dọc theo bờ sông, có lẽ chỉ thấy cây cối, nước triều và những đám lục bình, chỉ nghe tiếng chim hót, tiếng ếch nhái, tiếng gió thổi…

Còn tôi, tuy cắm cúi đi, vẫn nghe tiếng mèo kêu trong đám cỏ, trong lùm cây hay bãi rác…

Thế giới của tôi là thế giới Mèo, thính giác của tôi có cùng tần số với mèo. Và tôi dừng lại, định vị rất nhanh nơi chú mèo con đang ở. Có khi là một ổ năm ba con, có khi là một đứa trẻ đơn độc đang đói và sợ.

Tên gọi “Quán Thế Âm Bồ Tát” (tiếng Phạn là  Avalokitesvara) có nghĩa: “nghe thấu được tiếng kêu cứu thầm kín từ chúng sinh trong thế gian để đến cứu khổ cứu nạn”.

Trong kinh Bi Hoa, đức Thích Ca Mâu Ni luôn luôn gọi đức Quán Thế Âm Bồ Tát là “Thiện-nam-tử” như vậy ngài vốn là nam nhân. Ngài cũng xuất thân là một thái tử, nhờ tu hành tinh tấn mà thành Phật.

Khi đạo Phật truyền sang Trung Hoa, vì hình ảnh người nữ luôn đem lại vẻ dịu dàng, trìu mến của người mẹ, có khả năng xoa dịu những vết thương thể xác lẫn tinh thần, hoá giải những phiền não, tuyệt vọng của chúng sinh, nên Quán Thế Âm Bồ Tát mới xuất hiện trong hình hài nữ nhi. Phật giáo đại thừa gọi đó là “tuỳ duyên hoá độ”.

Có thể tôi được ngài truyền cho khả năng nghe thấy những tiếng mèo kêu dù rất nhỏ, rất lạc loài, lẩn trong tiếng gió, tiếng sóng nước và tiếng ếch nhái…

Có khi đó là tiếng kêu đã kiệt, đã mỏng manh, thoi thóp của kẻ sắp lìa đời.

Có khi đó là tiếng thở hắt cuối cùng, tuyệt vọng của một sinh linh bị khuất lấp trong rác rưởi.

*

Năm 1984 tôi dự trại sáng tác của Hội Nhà văn Việt Nam ở Vũng Tàu. Sáng sớm tôi thường đi bộ trên kè đá sát biển ở Bãi Dứa.

Đi trước tôi là một anh dân chài, tay xách cái lưới cá. Chỗ hai chúng tôi đi  cách bãi cát khá cao. Còn biển thì ở ngoài xa. Anh dân chài vừa đi vừa nhìn xuống biển.

Tôi cũng nhìn xuống biển, nước trong xanh và những con sóng nhẹ, hiền hoà.

Đột nhiên anh dân chài dừng lại, nhảy xuống bãi cát, xăm xăm lội xuống nước. Và tung lưới.

Anh kéo lên một mẻ cá.

Lần đó tôi thật sự kinh ngạc. Cả hai chúng tôi đều đi trên bờ kè, đều nhìn xuống biển, nhưng anh dân chài thì thấy một đàn cá, còn tôi chỉ thấy nước.

Có phải đó là tuệ nhãn không? Hay chỉ là nghề nghiệp?

Cũng như tôi. Có phải tôi nhìn đâu cũng thấy mèo vì khả năng “quán thế âm” hay đó chỉ là lòng yêu thương những đứa trẻ lạc loài?

10. SĂN MỒI

(25/3/2018)

        Đôi ba lần, cháu nội soạn sách vở đi học, mở cặp, thấy một con chim chết. Đó có thể là quà tặng của bé Xíu, mà cũng có thể là Xíu muốn đem giấu chim ở một chỗ kín đáo.

Buổi trưa Xíu thường ra vườn nằm dưới khóm hoa rình mồi: những con chim sẻ tội nghiệp, có khi là chim chào mào.

Khi con trai của Xíu là Mướp đã lớn, nó bắt chước mẹ, cũng rình mồi kiểu đó. Nhưng Mướp còn trai trẻ, nhanh nhẹn và chính xác hơn. Nó bắt được cả những con cu cườm to bằng nắm tay, tha vào nhà.

Tôi la hét khiến nó sợ, phải buông con chim ra. Chim chưa chết, bay lên, đậu trên bức tranh treo ở phòng khách. Tôi đến bắt, thấy máu chảy dưới nách. Vết cắn khoét một cái lỗ nhỏ. Tôi lấy bông gòn tẩm thuốc povidine sát trùng cho nó và nhốt trong lồng, đem đậu xanh, gạo và nước, mong nó bình phục rồi tôi sẽ thả nó về với thiên nhiên, nhưng nó không ăn, chỉ đứng nhắm mắt.

Qua một đêm, sáng ra thấy gạo và đậu xanh vẫn còn nguyên. Con chim vẫn đứng im, nhắm mắt.

Hai giờ chiều, tôi đến thăm, nó đã chết, nằm ngửa, đưa hai chân lên trời.

*

Lũ mèo hoang chúng săn mồi để ăn, nhưng Xíu, Mướp và Vừng của tôi thì săn mồi chỉ để tiêu khiển.

Chộp được con mồi, chúng đùa giỡn giây lát rồi bỏ. Tôi lại phải chôn cất, phải buồn và suy nghĩ đủ thứ chuyện mà bình thường tôi không bao giờ nghĩ đến.

*

Tôi đem những con mèo  về nuôi, vì chúng là những đứa trẻ bị vứt ngoài đường phố, nhưng chúng lại đem cái chết đến cho những đứa trẻ khác, cũng ngây thơ và vô tội…

Những con chim đã chết không vì thù hận, không vì đói ăn mà chỉ vì một trò chơi của bản năng săn mồi.

Thế thì con người chết vì cái gì?

Con người phức tạp hơn con vật gấp nhiều lần nên cái chết của con người cũng vô cùng đa dạng. Chết già, chết bệnh, chết vì chiến tranh, vì hổ báo ăn thịt, vì tai nạn, chết vì tình, chết vì giành ăn, vì tranh chấp quyền lực…

Nhưng tựu trung, tất cả chúng sinh đều chết như những con mồi.

Săn mồi trở thành thuộc tính của vạn vật, kể cả cây cỏ và vi trùng. Săn mồi là một quy luật, một động lực tất yếu của huỷ diệt và tiến hoá.

Con người – bất chấp trí tuệ siêu việt và những cảm quan tinh tế của nó – cũng chỉ là con mồi trong quy trình tiến hoá đó.

Mèo săn chim trong khi chim đang săn những chú sâu trong kẽ lá. Sâu thì săn những chồi non, chồi non thì tìm dưỡng chất từ đất. Và đất cũng đang tìm thức ăn từ xác lá, xác sinh vật.

Xác sinh vật lại là nguồn sống cho giòi bọ, cho vi trùng. Và vi trùng lại là kẻ săn mồi truyền kiếp và nguy hiểm nhất của loài người…

Cuộc sống trên mặt đất này hoá ra lại là một trận đấu quyết liệt, là cuộc săn mồi bất tận, chòng chéo nhau giữa muôn loài.

Kẻ săn mồi có thể là những tên quái vật như Hitler, Stalin, Mao, Pol Pot… có thể là hổ báo, cá mập, kền kền… nhưng cũng có khi chỉ là những đứa trẻ thơ ngây như lũ mèo của tôi.

Cuộc săn mồi có thể là một trận chiến khốc liệt, nhiều bom đạn và xác người, có thể đẫm máu như một cuộc vây bắt của bầy linh cẩu… nhưng cũng có thể chỉ là trò nghịch ngợm.

Cuộc săn mồi có thể có mục đích to lớn: thoả mãn tham vọng chiếm hữu lãnh thổ, tài nguyên, quyền lực, nhưng nhiều khi cũng chỉ là giải quyết cơn đói, duy trì nòi giống.

Vậy thì con người chết để giải quyết “cơn đói” của ai? Hay chỉ chết vì một trò tiêu khiển?

Tôi nghĩ con người chết vì cả hai nguyên nhân đó. Chiến tranh là cơn đói quyền lực và tham vọng, còn chết già, chết bệnh là chết vì trò tiêu khiển.

Nhưng đó là trò tiêu khiển của ai?

Tạo hoá giống như đứa trẻ nghịch ngợm, dùng đất sét để nặn ra con người, chơi đùa một lúc rồi xoá đi để nặn ra con người khác.

Đó cũng là chuyện thường tình. Nhưng sai lầm lớn nhất của tạo hoá là đã thổi vào cục đất sét ấy một linh hồn, với trí tuệ, cảm xúc nhạy bén và ý thức sâu thẳm về lẽ tử sinh của thân phận nó.

Từ ý thức đó đẻ ra triết học và tôn giáo, rồi nào là văn học, nghệ thuật… tựu trung cũng chỉ để lý giải một điều rất đơn giản, đầy bản năng, đó là săn mồi.

Vậy mà tôi đã khóc khi chôn một con chim chết. Tạo hoá ơi! Người không thấy tội nghiệp cho một sinh vật bé nhỏ, mong manh là tôi đây sao?

Người không thấy đó là điều tàn nhẫn và phi lý sao?

11.MÈO MÊ GÁI

(4/4/2018)

Khi bé Vừng được 6 tháng tuổi, tôi đem đi triệt sản, vì nếu không, nó sẽ gieo rắc con rơi khắp nơi, tạo ra cả đàn trẻ hài nhi lăn lóc đầu đường xó chợ, tỷ lệ sống sót rất thấp.

Tuy nhiên cứ mỗi lần tắm rửa, lau mình hay chơi đùa với Vừng, thấy nó bị mất hai hòn dái, lòng tôi cứ bùi ngùi thương cảm, tự trách mình đã làm điều ác. Đôi khi lòng quặn thắt, bèn ôm siết nó vào lòng và hôn hít để tạ lỗi.

Vì sự ân hận ấy mà khi bé Mướp (con của Xíu) lớn lên, tôi đã quyết định không triệt sản, một phần vì nó là mèo đực, một phần vì nó đang ở với mẹ và với Vừng. Nó thương mẹ, thương Vừng và rất là thương tôi, tối nào cũng lên giường ngủ với tôi, nên tôi nghĩ là cho dù tới “kỳ động dục”, nó cũng sẽ không bỏ nhà ra đi.

Vậy mà tối qua nó đã bỏ đi.

Không biết anh chàng “15 tháng tuổi” này hẹn hò với bạn gái sao đó mà bị lọt xuống sông, phải cố bám lấy một nhánh cây để khỏi trôi đi.

Lúc tôi đi tìm thì đã hơn 10 giờ đêm. Trời tối. Tôi nghe tiếng kêu cứu. Tôi rọi đèn pin, thấy nó đang nằm trên cái cháng ba, sát mé nước, ôm nhánh cây chặt cứng, miệng thì gào lên thảm thiết.

Trong ánh đèn, tôi thấy hai đốm sáng của tròng mắt và thấy cả vằn lông của nó, nhưng không cách gì cứu được vì nhánh cây mà nó đang bám lại ở bờ bên kia của khúc sông.

Tôi gọi tên để cho nó bớt sợ hãi, nhưng tôi thì sợ vì nếu không cứu được nó lúc ấy thì càng về khuya, nước triều càng dâng cao, sẽ dìm nó chết hoặc cuốn nó đi ra sông lớn.

Tôi chạy về nhà gọi đứa con trai. Hai cha con đều biết bơi nhưng vì địa thế phức tạp, trời lại tối và mặt sông thì đầy rác rưởi nên không thể bơi ra cứu nó được, bèn tìm một miếng ván, cột sợi dây dài rồi ném tấm ván đến chỗ nó đang bám.

Chúng tôi đã ném cả hơn chục lần như vậy. Có lần tấm ván đến sát dưới chân nó, nhưng chẳng những nó không nhảy xuống mà còn sợ hãi ôm chặt nhánh cây hơn nữa.

Rõ ràng là nó không biết ý đồ của chúng tôi. Nó không hiểu hai cha con chúng tôi đang làm gì. Và nó càng sợ hãi.

Chúng tôi đành bỏ về, với hy vọng sáng hôm sau, mặt trời lên, mọi việc sẽ dễ giải quyết hơn.

Tôi phải uống một viên thuốc ngủ mới chợp mắt được trong ba tiếng đồng hồ.

Bốn giờ sáng tôi dậy, lật đật chạy ra bờ sông. Rất may là nước triều đã rút, nhưng mức nước vẫn còn cao hơn một mét và đen ngòm. Bé Mướp vẫn còn bám nơi nhánh cây ấy. Tiếng gào của nó đã khàn khàn, lạc giọng.

Tôi lấy một cái “xô” nhựa, lót vải mềm.

Tôi gọi điện thoại cho người thợ hồ quen thân.

Anh ta đến. Tôi nói cho anh ta biết những điều cần làm. Anh ta cởi quần áo. Chỉ mặc chiếc quần đùi, xách cái xô lội xuống sông.

Khi anh ta đến sát con mèo, nó rất sợ. Tôi phải gọi tên nó để trấn an. Rồi tôi dặn anh thợ hồ:

-Nó không biết là anh cứu nó đâu. Nó sẽ nghĩ anh đến để bắt nó, vì vậy phải cẩn thận. Tóm lấy gáy của nó thật chặt thì nó không thể cắn được.

Anh ta tóm gáy con Mướp nhưng hai chân trước của nó bấu chặt nhánh cây. Tôi bảo anh ta gỡ chân trước nó ra, và nhét nó vô cái xô nhựa, phủ tấm vải lên, rồi vừa lội, vừa đẩy cái xô vào bờ.

Nó vừa trải qua một đêm dài sợ hãi và lạnh, nên tôi không dám tắm, sợ nó bệnh.

Tôi đi lấy thức ăn cho nó.

Nhưng khi đem thức ăn đến thì nó đã biến mất.

Tôi cứ tưởng sự cố đêm qua đã làm nó tởn tới già, không dám theo gái nữa. Nhưng tôi đã lầm. Không có gì mạnh hơn bản năng truyền giống.

Tuy nhiên tôi vẫn hy vọng lần này nó sẽ không bị rớt xuống sông. Nó sẽ trở về.

Và chắc là tôi lại phải bế nó đi gặp bác sỹ thú y, dù biết rằng sau này tôi sẽ ân hận về điều đó.

12.CHỖ ĂN CỦA MÈO

(8/4/2018)

Một trong những địch thủ đáng ngại nhất của mèo là chó.

Tuy tôi cũng yêu chó, nhưng loài vật trung thành và tình nghĩa này cũng nhiều lần làm khổ tôi vì đã giết chết những con mèo.

Nhưng đó là chuyện đã qua. Hiện nay chúng đang làm phiền tôi vì giành ăn với mèo.

Tám giờ tối, tôi đem thức ăn ra gốc cây. Lũ mèo đã núp sẵn trong các bụi rậm. Lần lượt xuất hiện.

Đứa thì lặng lẽ đi ra từ bóng tối như một kiếm khách. Đứa thì bước đến trong tư thế rình mồi.

Những đứa nhỏ thì vừa chạy ra vừa gào lên mừng rỡ. Chúng luôn giành ăn trước, và những con lớn cũng biết nhường cho tụi con nít.

Tôi rọi đèn pin để điểm danh từng đứa rồi quay vào.

Những lần sau đó tôi chỉ đặt khay thức ăn rồi vào nhà. Sáng hôm sau, thấy cái khay sạch bóng, yên chí là lũ mèo đã “chén” sạch.

Nhưng có một lần vừa quay vào thì nghe lũ mèo gào lên, nhìn ra khe cửa, thấy chúng từ sau gốc cây phóng ra như những tia lửa xẹt.

Chạy ra coi thì thấy con chó hàng xóm đang đớp thức ăn lia lịa. Chỉ trong 30 giây nó đã dọn sạch bách.

Từ đó mỗi khi cho mèo ăn tôi lại phải đứng canh chừng. 

Con chó tức giận sủa inh ỏi. Hàng xóm ló đầu ra nhìn, thấy một lão ăn mày, một tay cầm chổi chà, một tay cầm cục gạch, đứng ngay giữa đường sáng choang ánh đèn. Thiệt tình không giống hình tượng một ông “nhà văn kiêm thi sỹ” chút nào!

Hàng xóm mà biết cái thằng cha khùng này từng làm thơ tình tán gái chắc cười bể bụng.

Thế nhưng tôi đã từng làm thơ tình tán gái và cũng tán được một mớ kha khá chứ phải đùa đâu!

Nhưng bây giờ không phải là lúc nói khoác. Tôi đã nghĩ ra cách bảo vệ bữa ăn cho lũ mèo hoang.

Tôi kêu thợ sửa lại hai cánh cổng sắt. Tất nhiên tôi cũng không lẩm cẩm nặng như nhà bác học Newton. Ông này có nuôi một con chó và một con mèo trong phòng thí nghiệm của mình. Và để cho chúng ra vào tự do (ông khỏi phải đứng lên mở cửa cho chúng), ông cho người khoét hai cái lỗ nơi cánh cửa: lỗ lớn dành cho chó và lỗ nhỏ dành cho mèo (người bình thường cũng biết rằng chỉ cần khoét một lỗ lớn là đủ.)

Tất nhiên tôi không vĩ đại như Issac Newton nhưng chắc chắn là tôi ít khùng hơn ông ta.

Tôi cho cắt một phần tư cánh cổng bằng sắt tấm, và thay vào bằng những thanh sắt dọc vừa đủ cho mèo hoang ra vào nhưng chó thì chui không lọt.

Tối đó tôi để khay thức ăn sau cánh cổng và gọi lũ mèo hoang tới.

Hai con mèo nhỏ tin cậy tôi nên bước vào bên trong cổng, đứng ăn ngon lành. Lũ mèo lớn lấp ló bên ngoài, vài phút sau cũng lần lượt bước vô.

Tôi núp sau cánh cửa.

Quả nhiên con chó hàng xóm xuất hiện, nhưng vì không chui lọt vô cổng nên đứng ngoài sủa inh ỏi. Lũ mèo cảm thấy an toàn nên đứng ăn tỉnh bơ, mặc cho chó sủa, chán rồi bỏ đi.

Cảnh tượng ấy đối với nhiều người chẳng có gì hay ho, nhưng với tôi thì rất thú vị, vì tôi đã nghĩ ra được một giải pháp hiệu quả và “khôn ngoan” hơn Newton nhiều.

Bạn thử tưởng tượng một đàn mèo đứng dự bữa tiệc buffet đông vui như thế, còn con chó thì lồng lộn bên ngoài song sắt mà không làm gì được, đành bỏ đi.

Tất nhiên tôi cũng thương chó, nhưng đó là chó hàng xóm, được người ta nuôi nấng tử tế, tôi không việc gì phải lo bữa ăn cho nó.

Tôi đã nhiều lần yêu cầu người ta nhốt chó (theo quy định của nhà nước) nhưng họ cứ lờ đi và nó đã làm phiền tôi quá chừng.

Tối nay giải quyết được con chó tôi thấy vui quá. Tự nghĩ: tuy mình bất tài, không đủ sức “tề gia trị quốc bình thiên hạ” nhưng ít ra cũng tìm được một chỗ ăn an toàn cho lũ mèo hoang.

13.HAI ĐỨA TRẺ ĐAU MẮT

VÀ CON CHÓ QUÈ

(24/4/2018)

Hôm qua bé Nhu gọi điện thoại: “Chú ơi, có người ném vào nhà con hai con mèo con. Cả hai đều đau mắt, một con rất yếu, không biết có qua khỏi không.”

Tôi bảo Nhu cứ cho chúng ăn để chúng khỏi chết, còn tôi thì đi tìm người nuôi. Cô bán tạp hoá nói:

-Con đang tắm cho chúng vì chúng rất bẩn, mình đầy đất và có nhiều vết xướt trên mặt, dưới bàn chân dính hắc ín đen thui, kỳ cọ bằng xà-bông cũng không ra.

Tôi đến hàng gạo của bé Nga. Nga nó cũng yêu mèo. Cách đây khá lâu, tôi ghé đó mua gạo, thấy có con mèo mướp đang nằm trên bao gạo. Nhìn cách con mèo ngủ, tôi biết cô chủ tiệm này là người rất yêu mèo. Tôi hỏi:

“Cháu có mấy con?”

“Một thôi chú. Trước đây cháu cũng có một con nhưng mới bị chó cắn chết. Cháu khóc mấy ngày luôn đó chú. Bây giờ cháu ngại nuôi chó mèo lắm. Thương nó, rồi khi nó chết thì buồn. Hồi đó cháu cũng có nuôi một con chó, nuôi được mấy năm thì nó cũng chết.”

“Sao mà chết vậy?”

Bé Nga chỉ tay về phía cái cột điện trước nhà.

“Sáng sớm, mở cửa đã thấy có con chó ốm giơ xương ai cột nơi đó. Nó run lập cập, mắt đầy ghèn. Con chạy ra xem, thấy nó bị tiêu chảy ra máu. Nó sắp chết nên người ta đem vứt ra đấy. Con thấy tội quá nên đem vào nhà. Rồi đưa đi thú y, tiêm mấy mũi thì khỏi bệnh. Con nuôi nó bình phục, khoẻ mạnh. Trời ơi, nó thương con ghê lắm chú ạ, không rời nửa bước. Nuôi được hai năm thì bị bọn trộm chó bắt mất. Con buồn quá, hễ cứ nghĩ tới nó là khóc.”

Lần đó tôi đi mua gạo mà tình cờ tìm được một người bạn tốt. Sau này gặp bé Nhu và Chí thợ hồ, cộng với cô Hồng (nhân vật chính trong truyện “Sống Sót”) nữa là bốn đồng chí, có thể thành lập được một “chi bộ”.

Lần này tôi đem chuyện hai con mèo con của bé Nhu kể cho Nga nghe. Nga nói:

-Chú ơi, con mèo nhà con vừa đẻ ba đứa con.

Nga nhìn quanh, đã thấy hai chú nhóc từ trong xó kẹt chạy ra.

-Chú ơi, tụi nhỏ cứ đái trên bao gạo rất bất tiện.

Tôi bó tay, đành đi tìm người khác.

“Người khác” đó là Hồng.(*)

-A lô! Em đang ở đâu đó?

-Em đang sắp đánh một thằng đàn ông mất dạy.

-Nó quấy rối tình dục em hả?

-Trời! Nó có mười cái lá gan cũng không dám làm chuyện đó.

-Vậy sao em đánh nó?

-Chưa đánh. Nhưng có thể sẽ đánh trong vòng ba phút nữa.

-Đợi anh tới xem với, Anh quay phim coi chơi.

Tôi vọt xe tới trong vòng hai phút rưỡi.

Hồng đang đứng khoanh tay trước mặt một gã đàn ông to con, mặt mày dữ tợn. Gã nói:

-Con chó này đâu phải của mày. Ai cho phép mày cho nó ăn?

Hồng búng tay kêu “tách” rất to.

-Nhưng nó cũng không phải của ông. Và nó cũng không nằm trong sân nhà ông. Ông lấy quyền gì cấm tui?

Gã đàn ông chõ mõm gọi hàng xóm:

-Cô Thuỷ ơi! Bắt được quả tang kẻ cho chó của bà ăn rồi nè.

Trong nhà im re. Hồng chỉ mặt gã đàn ông.

-Ê, thằng ngu! Tao bỏ tiền ra mua thức ăn để nuôi con chó què này chớ tao có trộm chó đâu mà mày nói “bắt quả tang”?

-Nhưng nó què. Chủ nhà đã bỏ đói, đuổi ra khỏi nhà cho nó đi. Nếu mày cho nó ăn thì nó sẽ không đi. Nó ỉa tùm lum, ai dọn?

-Nếu cần thì tao dọn. Nhưng tao không cho phép ai đuổi nó đi vì nó bị què hai chân sau. Nó không thể đi đâu được và cũng không thể tự kiếm ăn được. Nó sẽ chết. Mày hiểu chưa, hả thằng ngu?

Cuộc đối thoại thật thú vị, đầy tính văn học và nhiều kịch tính. Tôi dại gì mà không tham gia.

Tôi sấn lại ngay trước mặt gã đàn ông.

-Này ông bạn. Nếu đây không phải là chó của ông thì mời ông vô nhà nghỉ cho khoẻ.

Gã đếch sợ tôi. Gã trợn mắt.

-Mày là ai mà dám xía vô chuyện này?

-Thưa tiên sinh, tôi là bố nuôi của con chó này.

-Đồ điên! Tao nói cho mà biết. Ngày mai, con chó này sẽ biến mất khỏi đây.

Hồng cười ngất.

-Nói hay lắm, chú em ạ. Tao cũng nói cho mà biết: Sáng mai tao sẽ trở lại đây, nếu không thấy con chó này, bất luận vì nguyên nhân gì, thì tao sẽ đánh què hai chân mày giống hệt con chó này. Bây giờ nghe cho rõ đây: Kể từ giờ phút này tao giao cho mày nhiệm vụ: nuôi nấng con chó què này thật chu đáo. Nếu trái lệnh thì đừng có ra đường nhé, sẽ có mười thằng đệ tử của tao chăm sóc mày đấy.

Nói xong Hồng rút ví lấy một xấp bạc ném ngay trước mặt gã đàn ông rồi thót lên xe. Cười rất tươi với tôi.

-Bây giờ anh em mình đi uống cà-phê.

………………………………….

(*) Trong truyện “Sống Sót”, nhân vật Hồng là võ sỹ “không thủ đạo”, giàu có, sắm xe con, không phải để đi du lịch mà để đi hành hiệp cứu chó, chở về nuôi.

14.HỒI SINH

(26/4/2018)

Mười giờ sáng, tôi đợi Hồng ở quán cà-phê. Cô lái chiếc Audi Q7 2.0 đến, đậu bên kia đường rồi đi bộ sang chỗ tôi ngồi.

Hôm nay cô mặc robe maxi màu đen, sang trọng như một phu nhân. Tôi đưa ngón tay cái ra trước mặt.

-Mười một điểm.

-Thế điểm tối đa là mấy?

-Mười.

-Như vậy là thừa một điểm. Tại sao?

-Đó là điểm của chiếc Audi.

-Xe này mà anh cho có một điểm à? Anh đúng là nhà quê. Em mua hơn 3 tỷ đó.

Chúng tôi uống cà-phê trong mười lăm phút rồi đi thẳng tới chỗ con chó què.

Nó vẫn còn nằm trước sân, vẫy đuôi mừng, nhưng cả nhà chủ và nhà lão hàng xóm đều đóng cửa. Hồng lấy thức ăn trong cốp xe đem đến cho nó, không quên nước uống.

Con chó lết tới sát cổng và ăn ngon lành.

Chừng năm phút sau, nhà lão hàng xóm mở cửa, nhưng xuất hiện lại là một người đàn bà. Bà ta cười rất tươi, mở cổng bước ra đường, tiến về phía chúng tôi.

-Em xin lỗi về chuyện ngày hôm qua. Ông xã em rất nóng tính. Thực ra chuyện đâu có gì. Em thấy nó bị què em cũng rất thương. Nó què bẩm sinh đó anh chị.

Hồng nói nhưng vẫn tiếp tục vuốt ve con chó.

-Chị nói được câu ấy tôi rất mừng. Đáng lẽ tôi đưa nó về nhưng nhà tôi hiện đang nuôi 40 con. Khi nào tôi tìm được người nuôi tôi sẽ đến xin về.

Chúng tôi đứng dậy, định ra xe thì người đàn bà đã chìa ra cọc bạc mà hôm qua Hồng ném cho lão già.

-Anh chị nhận lại đi. Tụi em không dám nhận đâu, cả chủ con chó cũng không dám nhận.

Ngay lúc ấy người chủ chó xuất hiện.

Lại một người đàn bà.

-Cám ơn anh chị. Chó của tui, tui nuôi được mà.

Hồng nhận lại xấp bạc.

-Tốt quá. Nhưng tôi khuyên chị nên đưa nó vào nhà. Để nó nằm ngoài này tụi trộm chó sẽ bắt làm thịt, rất tội. Thỉnh thoảng chúng tôi sẽ đến thăm nó. Nhà tôi cũng gần đây.

Hồng cười rất tươi, nhưng giọng nói của cô đầy quyền lực, như một lời cảnh báo.

*

Chúng tôi ghé thăm cô chủ tiệm tạp hoá.

Nhu đang cho con bú. Cô bé có vẻ ngạc nhiên khi thấy chúng tôi đến như những đại gia. Có lẽ con bé tưởng Hồng là bà xã của tôi.

-Chào cô chú.

-Hai đứa cháu ngoại của chú đâu rồi?

-Cháu tháo dây xích rồi. Chúng đang chơi với hai đứa anh chúng.

-Coi chừng nó bỏ đi đấy.

-Không đâu chú. Bây giờ có đuổi chúng cũng không đi.

Tôi chưa kịp gọi thì cả bốn con đã chạy ra. Hôm trước tôi đã đem chúng đi thú y xổ lãi, mắt cũng đã lành nên chúng rất linh hoạt, chạy loăng quăng khắp nhà.

Những đứa trẻ mồ côi đã hồi sinh, tươi tốt như những chồi non trong nắng sớm.

Một buổi sáng thật tốt đẹp, thật vui và hạnh phúc.

15.CON CHIM NHỎ

(1/5/2018)

Nắng thiêu đốt. Nóng điên người. Tối ngày mặc quần xà-lõn, người nhớp nhúa. Năm giờ chiều ra trước nhà ngồi ghế đá. Mướp nằm bên cạnh, ung dung, nhàn nhã. Dường như cái nóng không làm nó khó chịu.

Trên hàng cây bên kia đường lũ chim cũng bay lượn, ríu rít.

Tôi nghĩ có lẽ mình cũng tìm được chút thanh thản trong cơn gió chiều. Ngờ đâu một tia chớp đen xẹt ngang mặt. Con chim sẻ chưa kịp chạm đất đã nằm gọn giữa hai hàm răng của Mướp.

Ông trời không tha cho tôi. Ông trời coi tôi như một con rối. Giựt dây một phát làm tôi bật dậy như cái lò xo.

Con Mướp chạy vô nhà. Tôi đuổi theo, la hét như thằng điên. Nhưng nó có chịu nhả con chim ra đâu. Nó chui xuống gầm ghế sofa. Tôi thọc cán chổi đuổi nó. Nó chạy lên lầu, chui xuống gầm giường. Tôi phải lấy cây lau nhà thọc nó.

Nóng chảy mỡ. Tức điên người. Con mèo vọt ra cửa phòng. Tôi ném cây lau nhà theo. Nó nhả con chim ngay đầu cầu thang.

Chúa ơi! Con lại có việc để làm nữa rồi! Con lại phải nuôi thêm một sinh vật chưa biết sống chết thế nào.

Một con chim sẻ. Nó hãy còn sống. Nó không bị thương nhưng cứ nằm bẹp, bay không được.

Không bay được thì làm sao mà thả nó về với thiên nhiên? Và thả ở đâu? Lùm cây, bờ sông  đều không được. Mèo, và cả chuột cống nữa sẽ xơi tái nó trong vòng mười bốn phút. Chỉ còn cách nuôi nó trong nhà, nhưng phải cô lập với lũ mèo.

Xíu, Mướp và Vừng bây giờ trở thành tai hoạ cho chú chim bé bỏng.

Tôi phải cô lập cái sân thượng và đặt con chim trong… lồng mèo.

Gạo, nước cung cấp đầy đủ. Hy vọng nó ăn no, chóng bình phục.

Nhưng sáng hôm sau đến thăm thì con chim đã ra khỏi lồng và đang nằm trong góc sân. Thấy tôi đến gần, nó chạy trốn, thỉnh thoảng bay lên được một đoạn, cách mặt đất chừng gang tay.

Không có dấu hiệu gì là nó đã ăn gạo.

Sang ngày thứ hai, gạo vẫn còn nguyên.

Lần trước con Mướp cũng bắt một con cu cườm và tôi cũng nuôi nó, nhưng vì nó không ăn nên đã chết.

Tôi chạy đến cửa hàng bán chim. Ông chủ nói:

-Nó còn nhỏ, nó không ăn gạo được đâu. Chú phải cho nó ăn sâu. Chú có cái nhíp không?

Người đàn ông cầm cái nhíp gắp một con sâu và đút vô miệng một con chào mào đang đứng trong lồng.

*

Tôi đem bịch sâu về cùng một cây nhíp. Nhưng không cách gì gắp được một con sâu vì nó cứ trơn tuột. Nhưng rồi cũng dính được một con. Vạch miệng chim sẻ ra. Nó ngậm chặt cứng. Đói hai ngày liền vẫn kiên cường. Nhét được con sâu vô, toát mồ hôi, nhưng nó không nuốt, con sâu dính ở khoé mép, ngo ngoe. Tức lộn ruột.

Viết văn cũng ngon lành, chơi piano cũng mùi mẫn, chưa thèm kể những “tài vặt” khác, thế mà cho một con chim sẻ ăn, đành chịu thua!

Nó không ăn thì nó sẽ chết. Cũng giống như con cu cườm lần trước.

Sáng hôm sau tôi chạy xe đến tiệm bán chim, dọn một bộ mặt sầu thảm, một giọng nói bi ai.

-Ông chủ ơi! Tôi không cách gì cho chim ăn được. Xưa nay tôi có nuôi chim bao giờ đâu. Tôi đầu hàng. Nó không chịu nuốt.

Người đàn ông cười tủm tỉm.

-Chim đâu?

-Anh bán cho tôi cái lồng thì tôi mới đem nó tới đây được. Anh nuôi giúp tôi cho tới khi nó bay được thì tôi lấy về. Tôi gởi trước  anh 500 ngàn uống cà phê. Tôi xin lỗi anh. Cái này không phải là tôi mướn anh nuôi đâu, mà là hai anh em mình cùng làm phước. Để nó chết tội nghiệp.

Ông chủ tiệm đưa cho tôi một cái lồng nhỏ. Tôi hỏi bao nhiêu tiền nhưng ông ta không thèm trả lời, quay lưng đi.

Mười lăm phút sau tôi đem chim tới. Nó chỉ to hơn cai hột mít một chút.

Ông chủ lại cười ruồi, bắt con chim ra, lấy cái ống tiêm bằng nhựa cho nó uống nước rồi lại đặt chim vào lồng.

-Chú về đi. Để tui nuôi cho.

Tôi nhét vô tay ông tờ giấy bạc 500 ngàn nhưng ông ta lại cười theo cái kiểu vừa như chế diễu, vừa như thương hại.

-Cất tiền đi. Khi nào chim bay được thì sẽ tính.

Tôi mừng quá. Có vẻ ông ta là một người tử tế. Tôi nghĩ là con chim bé nhỏ tội nghiệp của tôi chắc chắn sẽ được cứu.

16.CHIM SẺ VÀ MÈO CON

(12/5/2018)

Một ngày sau khi đem con chim sẻ nhờ nuôi, tôi gọi điện thoại cho người chủ tiệm bán chim. Chuông reo ba lần, anh ta nhấc máy nhưng chỉ nghe tiếng lao xao… rồi cúp.

Đó là dấu hiệu chẳng lành. Có lẽ con chim đã chết và anh ta không muốn báo tin buồn đó cho tôi nên cúp máy.

Tôi đắn đo, không biết có nên gọi lại không. Cuối cùng tôi quyết định lấy xe đến nơi.

Tiệm vắng, tôi nhìn quanh, tìm kiếm. Đủ loại chim, trong đó có con vẹt Nam Mỹ màu xám và một con quạ đen đứng thản nhiên trên cành cây khô.

Một thằng nhỏ từ sau nhà đi lên.

-Bác mua chim hay mua lồng?

-Hôm qua bác có gởi một con chim sẻ. Nó đâu rồi?

Thằng nhỏ dẫn tôi đến góc nhà. Trong lồng  có ba con yến phụng màu xanh lá và… con chim sẻ của tôi. Chúng đang ăn chung với nhau. Thức ăn là một thứ bột màu vàng nhạt, vón cục như thóc.

Con chim sẻ mổ ăn thong thả, trông nó cũng linh hoạt, mặc dù bên cạnh mấy con yến phụng nó giống như một cậu bé Somali còi cọc.

Lát sau ông chủ tiệm về, ông nói:

-Chú thấy nó ăn ngon lành chưa? Bốn năm bữa nữa là chú bắt về được rồi.

*

Tôi ghé tiệm tạp hoá của Nhu, thấy con mèo trắng nhỏ đang chơi với hai con Mướp.

-Còn một con nữa đâu?

Nhu cúi mặt, im lặng.

-Nó chết rồi chú ạ.

-Sao vậy?

-Con cũng không biết. Tối qua nó còn chơi với mấy đứa này, sáng ra thấy nó nằm chết trong bếp. Hình như nó bị tiêu ra máu.

-Sao con không bảo chú, để chú đem đi thú y? Bệnh đó chữa được mà.

-Con có biết nó bệnh đâu.

-Con đã làm gì với cái xác?

-Con chôn phía sau nhà.

Tôi không biết nói sao về một đứa trẻ đã chết bất ngờ như vậy. Hai người lặng im một lúc rồi tôi bỏ đi.

Một con chim vừa thoát chết thì một con mèo đã ra đi.

Buổi trưa oi bức và tĩnh lặng. Tôi không biết đi đâu, bèn quyết định đến thăm mèo của bé Nga.

Cửa hàng gạo vắng khách. Tôi gọi “Nga ơi! Nga ơi!” và ngồi trên xe máy mà chờ.

Nga bước ra đường, quệt nước mắt.

-Chú ơi, ông xã con cho con mèo cho đứa em ở trên đường Trần Xuân Soạn rồi. Con bé của con khóc quá trời luôn.

-Sao lại cho?

-Vì nó thường đái trên bao gạo.

-Nhưng cậu em đó có thương mèo không?

-Thương… nhưng mà… nhưng mà…

Tôi sợ cái tiếng “nhưng mà” ấy lắm.

Thằng bé bỏ con mèo vô cái bao lát. Chẳng biết làm sao mà đi đến đường Lâm Văn Bền thì nó sẩy ra, chạy mất.

Một con mèo mẹ đã có một lứa con, làm sao có thể cho người khác nuôi được?

Nó đã sẩy. Nó đã lạc giữa phố đông người và xe cộ. Không chốn nương thân. Đói khát. Ngủ bờ ngủ bụi. Bãi rác. Lỗ cống…

Có thể nó đang tìm đường về nhà cũ, nhưng…

-Tại sao con không báo cho chú?

Bé Nga lại lau nước mắt bằng mấy ngón tay, khóc sụt sịt.

-Con xin lỗi chú. Con xin lỗi. Con thật hối hận. Con thật ích kỷ.

Một ngày quá buồn. Một buổi trưa nóng nung người. Tôi ngất ngư như cái xác trôi dạt giữa chợ, cảm thấy mình đang tan vỡ, mệt mỏi rã rời.

Trước khi đi, tôi nói:

-Trao một con mèo cho người khác nuôi cũng giống như gả con gái về nhà chồng vậy. Phải biết rõ họ là người như thế nào. Quan trọng nhất là có thương mèo không. Họ có xứng đáng để mình trao cả sinh mạng, cả số phận của một đứa trẻ hay không. Con nhớ giùm chú điều ấy nhé.

17.VỀ VỚI MẸ

(13/5/2018)

Người bán chim gọi:

-Chú ơi, ra bắt chim về.

Vậy là 5 ngày. Với kinh nghiệm của một tay chuyên nghiệp, con chim sẻ của tôi đã bình phục.

Nó đang nhảy lách tách trong lồng. Tôi gọi nó, nhưng chắc chắn là nó không nhận ra tôi. Nó không biết tôi là ai, và cũng không biết rằng nó sắp được gặp lại mẹ.

Người bán chim lấy một cái bao giấy có đục nhiều lỗ, bỏ con chim vào rồi đưa cho tôi.

-Chú rải gạo trên sân thượng rồi thả nó ra, nó sẽ gọi mẹ nó tới.

Bao giấy nhẹ như không. Khi tôi chạy xe, thỉnh thoảng nghe tiếng rột rột bên trong bao, chắc nó lo sợ không biết đang xảy ra chuyện gì. Tôi đưa cái bao lên ngang mặt, gọi “chiếp chiếp” để trấn an nó.

Khi bước lên cầu thang, tôi nghĩ: sao lại phải lên sân thượng? Sao không đem nó đến cửa sổ phòng mình, đặt nó trên bồn hoa cho nó bay đi?

Tôi mở cửa sổ, ủ con chim giữa lòng bàn tay. Lúc ấy tôi nghĩ đến câu nói của Lệnh Hồ Xung: “Cầm kiếm cũng giống như cầm một con chim sẻ, cầm lỏng quá thì nó sẽ vuột mất, còn nếu như cầm chặt quá thì nó sẽ chết.

Quả nhiên thủ pháp ấy đã làm con chim yên lòng. Giống như nó đang rúc trong lòng bàn tay tôi, đang ẩn mình giữa hơi ấm của da thịt tôi. Và nó cũng toả ra hơi ấm của cơ thể nó. Hơi ấm của hai sinh vật của tạo hoá hoà vào nhau, êm đềm, trìu mến và đầy xúc động.

Tôi đặt nó trên bồn hoa, phía ngoài cửa sổ. Nó nằm im một lúc, nhìn khoảng trời trước mặt, rồi ngoảnh lại tôi.

-Bay đi con! Hãy về với mẹ!

Con chim sẻ bé bỏng của tôi thả mình vào khoảng không, như một chiếc lá, chao nghiêng trong gió.

Tôi nhớ mấy câu thơ của một người bạn gái:

Chim sẻ như lá cây

Rụng mà không rớt.

Bầu trời trước nhà tôi bé đủ nhìn.

Có gì mà chim kêu rối rít.

Cho lòng tôi cũng rối như chim?

(Thơ Lê Thị Kim)

Con chim bay thẳng, chui vào tán lá rậm của cây bàng trước sân nhà.

Và mất hút.

Tôi đợi.

Tôi ngóng chờ.

Chỉ một phút sau, chim mẹ từ trong vòm me của nhà hàng xóm đã bay đến.

Có tiếng kêu chiêm chiếp trong tán lá.

Tôi vẫn ngóng đợi.

Chốc lát, một con chim sẻ khác từ mái nhà sà xuống, đậu trên ngọn cây và cất tiếng gọi.

Những tiếng gọi nhỏ nhoi, bay trong buổi sáng tĩnh lặng, ríu rít mà dịu dàng, rải đều trong cơn gió nhẹ, lấp lánh như ngàn cánh hoa bồ công anh tím ngát.

Hình như ông Trời đã sắp đặt cho hai mẹ con chim sẻ gặp nhau trong ngày Chủ Nhật thứ hai của tháng Năm: Ngày Của Mẹ.

Mẹ ơi, xin hãy coi cuộc trùng phùng này như món quà của đứa con trai bất hiếu đã để mẹ chết trong đau khổ.

18.TẠI SAO

ÔNG NGOẠI BỎ TỤI CON?

(14/6/2018)

Tôi ở Mỹ có 3 tuần. Tôi không thể ở lâu hơn nữa vì lo cho tụi nhỏ quá, lo chúng gặp bất trắc, bà xã tôi không đủ kinh nghiệm để đối phó.

Lần này đi Mỹ là thăm đứa cháu nội đang học năm thứ hai đại học. Và nhìn ngắm sự thay đổi của một đứa trẻ từ chiếc xe đạp bước lên chiếc xe bốn bánh, từ những đường phố đông nghịt xe máy, xe đạp, xe con, xe tải, xe buýt chen lấn nhau… rẽ sang những free way thẳng tắp rộng thênh thang của một xã hội văn minh hiện đại bậc nhất hành tinh…

Chắc chắn sẽ có nhiều thay đổi.

Hai năm ở Mỹ, với khả năng giao tiếp tiếng Anh hoàn hảo, bé đã hội nhập gần như toàn diện vào xã hội mới.

Tôi chỉ cần nhìn thấy sự thay đổi ấy. Và yên tâm. Và trở về với những con mèo, nghèo nàn, côi cút, đói khát… đang đợi tôi từng ngày, từng giờ…

Và đang tự hỏi: sao ông ngoại bỏ tụi con đi lâu quá vậy?

Tuần lễ thứ hai ở Mỹ có quá nhiều lo lắng khi bà xã thông báo là đang sơn lại toàn bộ cái nhà.

Hãy tưởng tượng một tốp thợ năm bảy người, mặt mày lạ hoắc, với dây thừng, thùng sơn, kềm, búa, vác thang, bưng ghế… từ đâu đột nhập vào nhà, đục đẽo, khoan tường… theo kiểu: “người nách thước kẻ tay đao. Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi”  thì lũ mèo của tôi sẽ khiếp đảm cỡ nào.

Chui gầm giường, kẹt tủ, xó bếp… không chỗ nào an toàn cả. Vì đó toàn là những nơi bị toán người lạ mặt tấn công tận ổ, càn quét, cào xới, bụi tung mù mịt. Giường tủ, bàn ghế bị xê dịch liên tục, xó xỉnh nào cũng bị moi móc, chà xát, càn quét… chỗ đâu mà trốn?

Chỉ còn nước trốn trên mái nhà, chui vào những bụi rậm ven bờ sông hay trở lại cái đống gỗ mục của nhà hàng xóm.

Nhưng điều tôi lo sợ nhất là con Vừng. Nó thuộc giai cấp vô sản bụi đời. Có nhiều khả năng nó sẽ bỏ nhà ra đi phiêu bạt giang hồ, một đi không trở lại.

Tôi điện thoại về hỏi, bà xã nói nhẹ nhàng: “Không sao đâu, vẫn thấy tụi nó quanh quẩn trước nhà.” Nhưng tôi biết chắc là bà không thể phân biệt con nào là mèo nhà, con nào là mèo hoang, con nào còn, con nào mất… bởi vì có những con rất giống nhau, nhất là những con lông vàng như con Vừng.

Sự vắng mặt của tôi là một cú sốc. Sự xuất hiện dài ngày của tốp thợ sơn là cú sốc khác, phũ phàng và đầy đe doạ.

Liệu ba con mèo nhà và lũ mèo hoang của tôi có chịu đựng nổi những cú sốc bất ngờ ấy không?

19.ÔNG NGOẠI TRỞ VỀ

(20/6/2018)

Chưa có chuyến trở về nào lại hồi hộp như chuyến này, bởi vì tôi không biết lũ mèo còn mất thế nào, chúng còn nhớ tôi không, những đứa trẻ như Xíu, Mướp, Vừng vẫn đang ở nhà hay đã bỏ đi trước sự xâm nhập thô bạo của đám thợ sơn?

Máy bay từ Tokyo về đến Tân Sơn Nhất lúc 10 giờ 45 phút tối, làm thủ tục hải quan xong, đi taxi về đến nhà hơn 12 giờ khuya.

Trước khi mở cổng, tôi nhìn quanh gốc cây bàng trước nhà, thấy trống trơn. Meo meo mấy tiếng cũng chẳng thấy con mèo hoang nào xuất hiện.

Vừa mở cổng, thấy có con mèo lạ chạy vụt ra, biến mất trong bóng tối.

Tôi vứt mẹ hành lý ở phòng khách, gọi tên từng đứa, nhưng chẳng thấy đứa nào ló mặt.

Đến từng chỗ nằm quen thuộc của chúng thì thấy Xíu và Mướp nhưng không có Vừng. Sốt cả ruột, không biết hỏi ai, nên tôi phải tự đi tìm. Bà xã nói: “Gần một giờ sáng rồi, anh ăn chút gì đi. Sáng mai hãy tìm.” Nhưng tôi không đợi được.

Mỗi khi đi đâu xa, tôi vẫn thường lo cho con Vừng vì nó xuất thân từ giang hồ và trong nhà nó chỉ thương mỗi mình tôi nên gặp cú sốc nó rất dễ bỏ đi.

Thế là cái đầu nhiều tưởng tượng của tôi hình dung ra đủ thứ tình huống.

Trong 30 giây tôi biến thành kẻ  tâm thần.

Hai giờ khuya, bất chấp cuộc hành trình dài nửa vòng trái đất, ngồi thức trắng suốt 21 tiếng đồng hồ trên máy bay của Japan Airlines chỉ với hạt hạnh nhân và rượu saké, tôi quên cả mệt mỏi, đi lang thang trong khu cư xá vắng tanh, tay thì rọi đèn pin vào các bụi rậm, các ngóc ngách, miệng thì kêu meo meo, với hy vọng mong manh là nhìn thấy cái bóng màu vàng cùng khuôn mặt rất ngây thơ và đôi mắt buồn, đang thu mình trong một lùm cây nào đó.

Meo meo!

Những tiếng gọi lạc lõng, tan vỡ trong đêm tối. Những bước chân khua động, đơn độc giữa khuya khoắt.

Những người dân phòng thấy kẻ lạ lang thang trong cư xá lúc nửa đêm thì rọi đèn pin.

-Ai đó?

-Chú đây mà.

-Chú đi tìm mèo hả? Hơi đâu mà tìm. Nó đi theo cái, sáng nó về.

Tôi mệt lả. Vừa buồn ngủ vừa đói. Tôi đành quay về, uống một lúc hai viên thuốc ngủ.

*

Ngày hôm sau, con Vừng vẫn không về. Bà xã và lũ con đều nói: “Tới bữa nó vẫn về ăn mà.” Nhưng tôi biết chắc đó là một con mèo khác, một chú mèo hoang có bộ lông giống như nó, chứ không phải nó, vì lúc trưa chính tôi đã nhìn thấy con mèo hoang đó lén vô nhà để ăn những miếng cá thừa của Xíu và Mướp bỏ lại. Nó cũng quen với tôi, cũng chịu cho tôi vuốt ve, nhưng nó không phải là Vừng.

Vừng đối với tôi rất quan trọng, tuy nó không phải là loại mèo quý hiếm đắt tiền như Russian Blue giá 500 đô la, mèo Serengeti 2.000 đô, mèo Safari 8.000 đô hay mèo Savannah 22.000 đô… Nó chỉ là một con mèo bình thường mà tôi đã nhặt từ bãi rác về nuôi, nếu đem bán chỉ được chừng 100 ngàn đồng (5 đô la), người ta mua để giết thịt. Nhưng Vừng đối với tôi còn thân thiết hơn ruột thịt. Bởi vì tôi đã nuôi nó từ khi còn là đứa hài nhi lạc loài, côi cút.

Nuôi được một năm, khi nó trở thành chàng trai đẹp đẽ, thì nó và những con mèo hoang khác bị bọn trộm mèo rượt đuổi trong một vụ càn quét kinh hoàng. Nhiều con mèo đã bị bắt bỏ bao bố đem đi làm thịt, nhưng tôi vẫn hy vọng Vừng đã chạy thoát được.

Tôi đi tìm nó khắp nơi, trong nhiều ngày. Cuối cùng, lúc đã hết hy vọng, thì tôi lại gặp nó từ trong ống cống chui ra.

Nhưng từ đó nó rất sợ con người. Gặp bất cứ ai nó cũng chạy trốn. Trừ tôi. Tôi là chỗ dựa duy nhất của đời nó. Không có tôi, nó sẽ biến thành kẻ “trôi sông lạc chợ”, nó sẽ thất lạc trong cõi đời hỗn độn này, nó thiếu kinh nghiệm để đối phó với những hiểm ác của chốn giang hồ. Không cha không mẹ, tôi là người thân duy nhất của nó. Và tôi yêu nó xót xa vì nó là đứa trẻ tội nghiệp nhất.

Vì thế mà lần này tôi cứ đi tìm. Đi tìm. Đi tìm. Bờ sông. Xó chợ. Ngõ hẻm. Bãi rác. Gầm cầu…

Ba ngày đã trôi qua. Một buổi sáng tôi đi chợ mua cá về cho Xíu và Mướp. Vì cá không được tươi nên tôi phai chiên lên, chúng mới chịu ăn. Tôi hỏi bà xã:

-Dầu ăn em để đâu vậy?

-Kệ bếp sát đất. Kế bên cái bình ga.

Đó là ngăn tủ bà xã tôi đựng cả mấy chục chai dầu ăn mà bà mua trong các đợt khuyến mãi.

Tôi mở cánh cửa tủ ra, cúi xuống ngăn cuối cùng để lấy một chai, thì thấy thấp thoáng phía sau những chai dầu màu vàng là một bộ lông mèo quen thuộc. Tôi gọi:

-Vừng ơi! Ông ngoai đây con! Ông ngoại tìm con mấy bữa nay khắp nơi. Ông ngoại tưởng con đã chết rồi.

Tôi ôm nó trước ngực. Nó ốm nhom vì đói. Nó run rẩy vì sợ hãi hay xúc động tôi không biết, nhưng tôi nghe tiếng nó rên rỉ nho nhỏ như tiếng khóc, tiếng trách móc, hơn dỗi. Tôi cảm nhận rất rõ sự rung động của hai thân xác, hai sinh vật, hai đứa con của tạo hoá đang ôm ấp nhau, che chở cho nhau sau một thời gian dài xa cách.

20.NGHIỆP CHƯỚNG

(3/8/2018)

Độ nửa tháng nay có cô bé bày bán cá biển ở vỉa hè gần nhà, từ 3 giờ chiều.

Thời gian và vị trí rất thuận tiện nên cứ khoản 4 giờ tôi hay ghé, khi thì đi xe máy, khi xe đạp.

Chiều nay tôi đi bộ. Quanh đó cũng có nhiều hàng quán như hột vịt lộn, xe nước mía, xe bánh mì, trái cây… Họ đều quen mặt tôi, thấy ông già chiều nào cũng ghé mua cá rất đúng giờ, có người đâm ra tò mò, hỏi: Sao bác không sai con, cháu đi mua? Bác sống một mình hả? Nhà bác ở gần đây sao thấy bác đi bộ?

Lúc nãy cô hàng cá thấy tôi mặc quần short, áo thun, tà tà đi tới thì hỏi:

-Năm chục ngàn cá nục phải không, bác?

-Hôm nay cá ngừ.

Chồng con bé là một chàng trai to con, nghiêng mặt nhìn tôi.

-Cháu ngoại của bác sao chỉ ăn toàn cá biển. Sao không ăn thịt, hay trứng?

-Chúng ăn quen từ nhỏ.

Cô vợ vừa làm cá vừa hỏi:

-Chúng học lớp mấy rồi bác?

-Học cấp hai. Nhờ ăn cá của cháu mà đứa nào cũng học giỏi. Đứa nào cũng được “cháu ngoan Bác Hồ” cả.

Anh chồng cười mỉm mỉm, ánh nhìn lộ vẻ tinh quái.

-Bác có cho mấy em nó học tiếng Anh không?

-Có. Nói giỏi lắm.

Thực ra mấy đứa nhóc nhà tôi chỉ bắt chim là giỏi. Càng lớn chúng bắt chim càng chuyên nghiệp khiến tôi rất khó xử. Mình cứu chúng nó, thương yêu chúng nó thì chúng nó lại trở thành tai hoạ của lũ chim. Chẳng những chim sâu, chim sẻ, chim chào mào… mà cả những loài lớn hơn như cu cườm, to bằng nắm tay, chúng cũng bắt dễ như chơi.

Bắt xong tha vô nhà. Con nào chết thì chôn, con nào còn sống thì không thể không cứu. Lại phải đem đến tiệm mua bán chim, nhờ họ cứu. Cứu sống, bình phục, có thể thả về thiên nhiên thì mỗi con tôi phải trả công 500 ngàn, còn nếu chết thì cũng phải đưa họ 100 ngàn.

Người bán chim này cũng tử tế. Anh ta nói:

-Không cứu được chim, sao con lấy tiền chú được?

-Nhưng đây là chỗ làm ăn của anh, sao tôi dám làm phiền anh. Anh nhận tiền giùm tôi đi. Vì tôi sẽ còn đem chim tới đây dài dài.

Trưa hôm qua, đang ngồi ăn cơm thì nghe tiếng kêu “chéc chéc!”. Ngừng nhai. Nghe ngóng. Chạy lên cầu thang thấy ba con mèo đứng ba góc.

Sát thủ là con Vừng. Miệng ngậm một con chim sẻ. Ném chiếc dép. Con Vừng bỏ chạy.

Khám nghiệm cơ thể chim, không thấy vết máu. Đem chim lên sân thượng thả ra. Nó bay là là nhưng không đứng được. Gãy mất một chân. Hy vọng cứu được. Xuống ăn cơm tiếp, dự tính ăn xong đem chim đi cứu.

Ăn xong, lên sân thượng, thấy chim nằm chết cứng.

Gói chim trong một tờ giấy định đem ra vườn rau chôn, nhưng vừa mở cửa vườn thì thấy ngay một con chào mào nằm dưới đất. Gãy cổ.

Thế là trong một buổi sáng đã có hai nạn nhân.

Nhìn con chim nằm cứng đờ trong lòng bàn tay, tôi ứa nước mắt.

-Tụi khốn! Quân giết người hàng loạt! Đồ mèo hoang mất dạy!

Nhưng tôi biết rằng cả đời tôi sẽ thương mèo. Có nghĩa là sẽ còn phải xót xa khi chôn những con chim bé bỏng.

21.CHIM KHÔNG VỀ NỮA

(12/9/2018)

Hai mươi năm trước, lần đầu tiên ghé thăm nhà thờ Notre Dame de Paris tôi đã rất ngạc nhiên khi thấy chim sẻ bay đến đậu trên những ngón tay của du khách để mổ những hạt đậu trong lòng bàn tay. Tôi cũng mua đậu, và chim sẻ cũng bay đến. Mỗi ngón tay một con, cổ tay thì có khi hai con. Lông của chúng cũng màu hạt dẻ như chim Việt Nam nhưng có pha chút sắc vàng. Và chúng rất mập.

Bồ câu thì bay rợp trời, đậu trên vai, trên đầu tôi, trên sân cỏ và trên mái nhà thờ. Nghe nói sau đó, chính quyền đã đuổi chúng đi vì chúng phóng uế bừa bãi trên khắp công trình kiến trúc quý giá ấy.

Mười năm sau, khi tôi lui về ngôi nhà ở quận Bảy SG, ngẫu nhiên chim sẻ cũng về theo tôi, có lẽ vì tôi đã trồng nhiều cây cối trước sân nhà, trong đó có một cây bàng Đài Loan cao lên tới sân thượng, tán lá sum suê, râm mát cả một vùng rộng lớn.

Chúng bay lượn, ríu rít. Chúng chao nghiêng như lá cây rơi trong nắng sớm, trong gió chiều, trong những trưa im lặng.

Những buổi trưa ấy chỉ có tôi và chúng. Và con nước triều đang lên thầm lặng, chậm rãi trườn đến những rễ cây bần, cây đước… vỗ về chúng trước khi bao phủ chúng bằng những con sóng nhỏ lăn tăn, đong đưa như chiếc nôi mềm mại, nhẹ tênh, rồi bò dần lên chỗ ghế đá tôi ngồi.

Đó là thế giới riêng của tôi và lũ chim.

Không phải chỉ có sẻ mà còn bìm bịp, chào mào, cu cườm và sáo. Và tôi. Tập hợp lại thành cư dân của một vùng tiểu thiên địa, một lãnh thổ nhỏ hẹp, xinh xinh, có sông nước, bãi cỏ, cây xanh bóng mát và rất nhiều hoa. Tuy không đẹp như thế giới của Lý Bạch với “Đào hoa lưu thuỷ yểu nhiên khứ. Biệt hữu thiên địa phi nhân gian”(*) nhưng cũng là một cõi trời riêng có thể giúp xa lánh chốn thị phi trong giây lát.

Tôi là người bạn duy nhất của lũ chim trong những buổi trưa im lặng như thế.

Thoạt tiên chúng không biết tôi là ai. Có thể như một người qua đường nghỉ chân nơi ghế đá dưới bóng cây. Nhưng nhiều lần chúng nhìn thấy tôi ngồi im lặng trong sáng sớm, trong những trưa trống vắng, trong những cơn gió chiều cuốn lá khô bay trên mặt đường… chúng đã đón nhận tôi như một cư dân của cái vùng tiểu thiên địa ấy.

Tôi rải thóc cho chúng ăn. Tôi ve vãn, tán tỉnh chúng như dụ đàn bà con gái. Chúng mon men đến, mổ vài hạt, rồi bốc lên cao, rồi sà xuống. Một con, hai con, rồi cả một bầy, một đàn.

Thế là giữa chúng tôi đã mọc lên một cây thân ái, ngày càng lớn lên, cành lá sum suê, rợp bóng mát.

Tôi nhớ những con chim sẻ trong quãng trường nhà thờ Notre Dame de Paris, tôi muốn tập cho chúng đậu trên những ngón tay, nhưng không được.

Giữa lúc mối tình của chúng tôi chưa đủ sâu đậm để người và vật có thể tin cậy nhau như thế thì… những con mèo xuất hiện.

Ironie du sort! Những con mèo lại còn thân thuộc với tôi hơn cả những con chim nữa.

Tuy chúng đến với tôi sau những con chim, nhưng giữa chúng và tôi có quá nhiều kỷ niệm đau buồn.

Chúng là những đứa trẻ mồ côi lạc loài. Mỗi đứa là một câu chuyện thương tâm. Mỗi đứa là một bi kịch, một số phận. Mỗi đứa là một mảnh vỡ tàn phai của kiếp sinh linh rộng lớn, tàn nhẫn, nghiệt ngã, xót xa. Mỗi đứa quyện vào đời tôi những sợi dây nghiệp chướng từ tiền kiếp, từ vô minh, từ khổ não và duyên nợ.

Và giờ đây, chúng xuất hiện như một sự đánh đố tâm thức tôi, một thử thách nhân cách tôi.

Chúng xuất hiện để đẩy tôi vào những cạm bẫy, những gai góc, những ngã ba đầy mù sương, lửa khói và gió lộng, rồi bắt tôi phải chọn lựa. Đi đâu? Rẽ vào hướng nào?

Có lần người nuôi chim đã khuyên tôi: “Chú hãy nhốt những con mèo trong lồng.”

Tôi không thể chọn giải pháp ấy.

Nhưng những con chim bé nhỏ hồn nhiên kia vẫn cứ bị giết chết bởi những con mèo. Mỗi tuần vài con. Chúng tha chim bỏ trong phòng khách, trên cầu thang, trước cổng…

Ngày trước, tôi khóc khi chôn những con mèo, giờ lại phải rơi nước mắt trên xác những con chim bé bỏng.

Có phải tôi đã sai?

Có phải chính tôi đã gây ra tội lỗi này?

Tôi bế tắt.

Giống hệt cái thời tôi mới đem con Vừng từ đống gỗ mục về nhà. Tôi đã phải loay hoay, khốn khổ để bảo vệ nó trước muôn vàn đe doạ.

Bạn tin không nếu tôi nói: phải mất hai năm trời để đem một chú mèo con bụi đời, côi cút, và sợ hãi từ chốn giang hồ về với mái ấm gia đình?

Bạn tin không nếu tôi nói, rằng tôi phải tốn mười mấy triệu đồng để bảo vệ Vừng khỏi sự đe doạ của môi trường sống chung quanh nó?

Bạn tin không nếu tôi nói, rằng chỉ vì tôi đem cơm cho Vừng, đang trốn trong đống gỗ mục, mà bị cả gia đình người chủ đống gỗ ấy vác gậy rượt đánh và chửi mắng thậm tệ.

Và còn nhiều kỷ niệm nữa. Đó chẳng phải là một “thiên tình sử đẫm lệ” giữa một con người và một chú mèo con xấu xí, đơn độc, đói rét bị vứt giữa cuộc đời tàn nhẫn này sao?

Thế còn những con chim?

Và mối tình của tôi với loài sinh vật nhỏ bé biết bay ấy?

Tôi cứ đi lang thang trong chiều, trên bến sông vắng vẻ. Tôi đi và tự hỏi: Làm sao để bảo vệ cả hai. Làm sao để sống chung với cả hai?

Chúng đều vô tội. Vì chúng không hiểu những gì tôi hiểu. Và tôi cũng không thể giải thích cho chúng. Chúng chỉ sống theo bản năng.

Những con chim đến để tìm bắt sâu, để ăn thóc tôi rải trong sân. Còn những con mèo rình rập bắt chim cũng chỉ là bản năng săn mồi. Chỉ là một trò chơi hoang dã.

*

Giữa lúc tôi đang rối bời vì những đứa trẻ của tôi thì sáng nay, lúc thức dậy, ra vườn dạo chơi, tôi thấy bầu trời im lặng.

Chỉ có những đám mây rất xa, những cành lá đong đưa và những cơn gió nhẹ.

Khu vườn câm nín. Cái thế giới nhỏ bé của tôi chết lặng.

Tôi đứng ngẩn ngơ nhìn bầu trời.

Chim đã không về nữa!

…………………………………..

(*) Thơ Lý Bạch. Trích bài “Sơn Trung Vấn Đáp”

22.NÀNG BẠCH TUYẾT

TRÊN CÀNH ME

(12/10/2018)

Bạn biết vì sao một con mèo leo lên cành me, nằm im ở đó trong nhiều giờ không?

Bắt chim? Không phải đâu. Vì nếu nó phóng lên chụp con chim thì nó sẽ bị rơi xuống đất ở một độ cao có thể gây chấn thương.

Muốn bắt chim, bao giờ nó cũng rình trong nhưng bụi cây mọc dưới đất, hoặc mai phục trong lớp cỏ cao. Khi lũ chim sà xuống ăn bông cỏ hay


sâu bọ thì nó phóng lên như chàng thủ môn Danijel Subasic của Croatia, bắt bóng trong góc hẹp và đáp xuông sân cỏ như một cánh bướm.

Nhưng đó là hình ảnh của những con mèo trong lúc săn mồi, hoàn toàn không phải là hình ảnh nàng mèo hoang vẫn leo lên cành me đợi tôi mỗi tối. Lúc ấy nó là đứa trẻ mồ côi, một đứa cháu đang đói, nằm chờ tiếng bước chân, tiếng mở cổng, tiếng gọi “meo meo” của ông ngoại.

Từ trên cành, nó buông mình xuống, nhẹ như chiếc lá, rồi chạy về phía tôi. Nhưng những con mèo hoang thường không bao giờ đến sát bên người, dù đó là người đang nuôi nó.

Nó dừng lại, giữ một khoảng cách an toàn rồi kêu lên: “meo meo… con đói, con đói! Ông ngoại ơi!… I’m hungry, grandpa!”

Tôi đặt khay thức ăn xuống bên gốc cây. Nó ăn rất khí thế. Nhìn mà mủi lòng.

Tôi muốn vuốt ve nó nhưng nó né tránh mặc dù nó là đứa trẻ duy nhất nằm chờ tôi trên nhánh cây me mỗi đêm, mỗi đêm, mỗi đêm… không hề sai hẹn, dù cho mưa gió, dù cho nước triều lên hay xuống, đường sá ngập nước hay khô ráo, dù cho xóm nhà tôi đang yên tĩnh hay đang có đám cưới, đám tiệc ồn ào.

Lúc hai chúng tôi mới quen nhau thì nó cũng như những con mèo hoang khác: chờ trong bụi rậm bên bờ sông hay trong bãi rác, góc nhà, vườn rau. Chúng giấu mình trong cây lá, trong bóng tối. Chúng mai phục sẵn ở đó nhưng vô hình, vô ảnh.

Và không tiếng động.

Ban đầu có lẽ là vì những con chó của hàng xóm: một bầy năm sáu con, có đứa to như sư tử, có đứa là berger Allemand nhanh như tên lửa, có đứa là chó săn Phú Quốc đen thui như một black arrow tử thần… mỗi lần ông chủ ngôi biệt thự thả những tên khủng bố ấy ra là lũ mèo hoang khiếp đảm, chạy tán loạn.

Nhưng trong đám tàn binh ấy có một thiếu nữ tuổi teen lông trắng như bông gòn không bỏ chạy mà leo lên cây me trước nhà tôi, chọn một cành thấp và nằm thảnh thơi ở đó, mặc cho lũ chó quần thảo bên dưới, gầm gừ, và chửi rủa bằng đủ thứ ngôn ngữ: Đức, Pháp, Đan Mạch, Nhật Bản và cả tiếng Việt giọng Phú Quốc.

Mặc kệ, nàng Bạch Tuyết của tôi đủ thông minh để hiểu rằng cái đám du côn “cẩu tạp chủng” ấy chẳng làm được trò trống gì với độ cao 4 mét.

Còn bầy mèo hoang kia thì phải đợi cho đến khi lũ chó nghênh ngang đi phân phát chất thải của chúng cho các nhà hàng xóm xong xuôi và bị lùa vô chuồng, thì mới mò về, ém quân rải rác khắp nơi, chờ ông ngoại xuất hiện với bữa tối đựng trong cái khay to tổ bố.

Riêng nàng Bạch Tuyết thì lim dim ngủ, cho đến khi nghe tiếng mở cổng của ông ngoại, thì mới mở mắt ra, uốn mình mấy cái rồi nhảy xuống đất.

Từ đó, cành me trở thành nơi hò hẹn giữa hai ông cháu tôi, không phải chỉ vào bữa ăn tối mà cả những buổi trưa vắng lặng tôi đi một mình dưới bóng cây.

23.EM BÉ SOMALI

(12/02/2019)

Nó đen nhẻm, chỉ to bằng củ khoai. Lần gặp đầu tiên tôi tưởng nó là một con chuột hay con sóc. Và cũng không khác nùi giẻ rách là mấy.

Nó di chuyển từ cái chậu kiểng nhà hàng xóm đến cổng nhà tôi, lúc nó chui vào cổng tìm nhặt thức ăn thừa của lũ mèo nhà bỏ sót, tôi mới biết đó là một sinh vật. Một đứa bé Somali còi cọc, da bọc xương, lông rụng gần hết, chỉ còn sót lại những nhúm nhỏ xơ xác, tả tơi và khô cháy.

Tôi không dám nhúc nhích, sợ nó bỏ chạy. Tôi đợi cho nó ăn hết mấy hột cơm thừa, mấy miếng cá vụn xong mới dám gọi: “Meo!”. Gọi rất nhỏ. Nhưng nó cũng bỏ chạy, trốn trong cái chậu kiểng nhà hàng xóm lúc nãy.

Tôi bước rất nhẹ. Như một nhà sư khất thực. Và tôi đã nhìn thấy nó. Tôi ngồi xuống, khum hai bàn tay như cái tổ chim, đưa ra phía trước. Meo! Đừng sợ. Chờ ông ngoại chút. Ông ngoại đi lấy cá cho con.

Khi tôi đem con cá nục hấp ra thì rất may, nó vẫn còn đó, nhưng tôi không dám lại gần. Tôi đặt con cá cách nó chừng một bước chân rồi bỏ đi.

Núp sau cánh cổng, quan sát.

Chừng một phút sau, cậu bé Somali bước ra  rất nhanh, tha con cá rồi rút vào giữa mấy cái chậu kiểng.

Buổi chiều hôm đó tôi lại đặt con cá ngay khoảng trống giữa những chậu kiểng rồi bỏ đi.

Một tiếng đồng hồ sau tôi quay lại để nhặt xương cá thật sạch, đem vứt xuống sông vì sợ hàng xóm phát hiện xương cá sẽ phàn nàn là tôi cho mèo ăn làm dơ bẩn thềm nhà của họ. Đó là kinh nghiệm “xương máu” của cái lần tôi cho mèo hoang ăn bị bà vợ ông đại úy công an xách chổi chà ra làm bộ quét sân và chửi: “Chưa hề thấy cái xóm nào ở dơ như xóm này. Cái đồ vô văn hóa.”

Và hôm ấy, nếu tôi không phải là một lão già đáng tuổi bố cô ta thì chắc là đã bị “ăn” một vài cán chổi!

Một tuần sau, chú bé Somali đã mọc lông lún phún, trông đã ra dáng một con mèo. Và nó cũng dạn dĩ hơn. Tuy vậy, buổi tối khi tôi cho lũ mèo hoang ăn ngoài gốc cây thì nó là đứa sau cùng đến “dọn dẹp” những thứ còn sót lại.

Nó là kẻ lượm mót, là kẻ cùng đinh,  là kẻ ăn xin của những đứa ăn xin, là sinh vật đói khát của những kẻ đói khát, là mèo hoang của những con mèo hoang.

Mèo hoang! Chúng không “chảnh” như những con mèo nhà, chúng không chê thứ gì. Chúng ăn cả đầu cá, xương cá, thịt bầy nhầy, da heo. Cơm thiu chúng cũng không từ. Vì thế khi chúng bỏ đi thì hiện trường sạch bách. Vậy mà chú bé Somali vẫn tìm được một vài thứ còn sót lại. Nhặt nhạnh, gom góp, tỉ mỉ… từng hột cơm vung vãi, từng cọng rau, từng cái vảy cá. Nó vừa ăn vừa quan sát chung quanh như một kẻ tàn tật đầy mặc cảm, sợ hãi bị đánh đuổi, bị chà đạp, bị giết chết bất cứ lúc nào.

Tôi núp sau cánh cổng, nghĩ cách đến gần nó, bế nó để vuốt ve nó, cho nó hiểu rằng không việc gì phải sợ, rằng tuy con nhỏ bé, xấu xí, yếu đuối, nhưng  trong lòng ông ngoại thì con vẫn là một tác phẩm của tạo hóa với đầy đủ những kỳ diệu của một sinh vật mà chỉ có tạo hóa mới sáng tạo được.

Người ta có thể chế tạo ra một chiếc điện thoại thông minh, một vệ tinh nhân tạo hay một robot biết nói tiếng người, nhưng không bao giờ có thể chế tạo được một con mèo, cho dù còi cọc, xấu xí như con.

Ông ngoại muốn làm mọi cách cho con hiểu rằng con là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, thiêng liêng không gì có thể thay thế được, rằng con không phải là một món đồ chơi, một vật dụng, một cái máy. Con là một sinh linh, con đang sống cuộc đời của mình như bao sinh vật khác, như chính ông ngoại, đang cảm nhận thế giới chung quanh, đang đau khổ và hạnh phúc, đang sợ hãi và thèm muốn một mái ấm, một sự vuốt ve âu yếm, một tiếng gọi dịu dàng.

Người ta có thể đem bán con một đồng, không ai thèm mua, nhưng con vẫn là một tác phẩm kỳ diệu gấp ngàn lần chiếc điện thoại thông minh giá 20 triệu đồng.

Con nhỏ bé nghèo nàn và tội nghiệp của ngoại, làm sao để ông ngoại có thể nói cho mọi người hiểu điều đó?!

*

Nửa tháng, một thời gian quá ngắn để có thể biến một con mèo con còi cọc thành một chú bé sởn sơ như những đứa khác.

Nhưng chỉ trong một giây, tạo hóa có thể xóa bỏ một tác phẩm mà ngài đã tạo ra.

Tại sao vậy? Lẽ nào ngài lại quên mất rằng tác phẩm ấy tuy nhỏ bé nhưng dù phải đầu tư một tỷ đô la thì các nhà khoa học cũng không chế tạo ra được? Lẽ nào ngài vô cảm, hay ngài chỉ là một quyền lực “phi ngã” (impersonal)?

*

Như thường lệ, 6 giờ sáng trước khi đi tập thể dục, tôi đặt con cá cạnh cái chậu kiểng. Một tiếng đồng hồ sau trở về, tôi vẫn thấy con cá còn nguyên đấy.

Buổi tối, lũ mèo hoang các nơi tụ về dưới gốc cây bàng, nhưng nơi chậu kiểng không có con Somali nằm đợi như mọi khi.

Tôi bắc ghế ngồi chờ sau cánh cổng đến khuya. Vẫn bặt vô âm tín. Sao vậy? Nó chưa tới tuổi động dục. Nó cũng không bị lũ mèo hoang ăn hiếp. Thế thì nó đi đâu?

Tôi nghĩ ngay đến cái chổi chà cùa bà vợ tay đại úy. Tôi nghĩ ngay đến những người chủ đống gỗ mục từng vác gậy đánh tôi, từng ném hộp thức ăn xuống sông.

Có thể nào người chủ đống gỗ không muốn cho nó tá túc nên đã đánh đuổi nó đi? Có thể nào nó đã lẻn vào bếp của ai đó và đã bi đập chết, ném xuông sông?

Tôi lùng sục trong các bụi cây, các chậu kiểng bày trước nhà hàng xóm. Tôi đi lang thang mấy vòng quanh tất cả các nhà trong xóm, vừa đi vừa gọi meo meo. Tiếng gọi vang lên giữa im lặng như tiếng con thú lạc bầy, như tiếng  rao buồn của những người mua ve chai lang thang trên chiếc xe đạp lọc cọc. Những tiếng meo meo rơi rớt trong vô vọng, như mớ lá khô bay lả tả, âm thầm, thất lạc trong cỏ rối, trên bờ sông, trên vỉa hè câm nín.

Rồi tôi trở về, đứng ngơ ngác trước cổng nhà mình như một hình hài cũ kỹ, đơn độc, không biết nhờ cậy ai, không biết chia sẻ cùng ai…

Bỗng dưng, từ đâu đó có tiếng gọi nhỏ nhoi của một đứa bé gái:

-Ông ơi! Ông đi tìm mèo hả? Có phải ông tìm con mèo nhỏ xíu màu đen không?

-Phải. Sao con biết nó?

-Con thấy ông thường cho nó ăn.

Đó là bé Vân, mười hai tuổi, ở sát cạnh nhà tôi. Nó đang đứng trên ban-công, ôm một con tam thể trước ngực.

-Con biết nó ở đâu không?

-Nó chết rồi ông à. Trưa hôm qua, con đi học về, thấy con chó nhà cô Quỳnh Như ngậm nó trong miệng.

-Sao con không cứu nó?

-Lúc đó nó đã chết rồi. Con chó tha nó bỏ trước cửa nhà cô Quỳnh Như, chồng cổ lấy cái xẻng, xúc nó ném xuống sông rồi.

Tôi khóc. Tôi ngồi xuống vỉa hè, ôm mặt. Khi mở mắt ra, tôi thấy bé Vân đang đứng bên cạnh.

-Ông đi theo con. Nó bị ném xuống ở chỗ này nè.

Hai ông cháu ra bờ sông.

Đêm qua, nước triều lên, lục bình trôi theo dòng đã lấp kín mặt nước. Tôi lấy một cây sào dài, vạch từng dề lục bình ra kiếm, nhưng chúng dày đặc, tầng tầng lớp lớp. Những chiếc lá to bản, xanh ngắt và dày, liên kết nhau thành từng mảng lớn, trùng trùng điệp điệp như rừng. Biết tìm đâu ra một con mèo nhỏ như củ khoai vùi xác dưới chín tầng địa ngục ấy?

24.NHÀ QUÝ TỘC

VÀ TẤM BIA ĐÁ

(15/02/2019)

Quý ông nọ có vẻ là một đại gia, mặc quần short kaki trắng, áo pull trắng hiệu Polo, mang giày Adidas trắng. Da cũng trắng. Nói chung là trắng bóc. Coi rất sang.

Hình như ông ta ở đâu ngoài phố, chủ khách sạn hay nhà hàng gì đó.

Suốt trong một tuần, cứ sáng sáng ông dắt con chó ngao đi dọc bờ sông rồi dừng lại ngay mảnh vườn trước nhà tôi, nơi tôi chôn mấy con mèo, còn bà xã tôi thì trồng rau, trồng hoa đủ thứ.

Ông dừng lại để con chó của ông nó ị. Bờ sông rộng mênh mông nó không quan tâm, nó lại thích vừa ị vừa ngắm hoa.

Thế mới gọi là chó nhà giàu chứ!

Cái trò ấy lập đi lập lại nhiều lần khiến tôi phải lên tiếng.

-Ông có thể cho con chó đi ỉa chỗ khác được không. Đây là chỗ tôi trồng hoa và cả rau nữa.

Quý ông nọ giương mắt nhìn tôi hồi lâu như để đánh giá xem tôi thuộc thành phần nào trong xã hội, rồi hỏi:

-Đất này của ông?

-Cái vườn này của tôi.

-Đây là bờ sông. Đất của nhà nước. Ông không biết đây là đất công à?

-Nhưng trước đây nó là bãi sình, gia đình chúng tôi phải bỏ tiền và công sức ra để san lấp mặt bằng, vun vồng trồng rau, trồng hoa mới được như thế này.

-OK. Nhưng đã là đất công thì tôi có quyền dắt chó đi dạo.

-Đi dạo cái con khỉ! Chó ỉa tùm lum trên rau của tôi kìa. Hốt đi, cha nội!

Nhà quý tộc nọ nhìn tôi kinh ngạc. Có vẻ như xưa nay không ai dám nói năng với hắn cái kiểu đó. Hắn cười khẩy:

-Đã không biết luật pháp con ăn nói vô văn hóa.

Tôi hỏi:

-Ông có từng ở nước ngoài không? Tại các công viên bên Mỹ người ta thường treo những cái giỏ đựng rất nhiều túi giấy dành cho người dắt chó đi dạo. Khi chó ỉa thì người chủ chó phải hốt cứt bỏ trong những cái túi ấy, đem bỏ thùng rác. Những nơi nào không có túi giấy thì người dắt chó phải đem túi theo để đựng phân chó. Thế ông có đem túi theo không?

Hắn có vẻ không hề biết đến chuyện đó, mặt cứ đực ra như thằng ngố.

Chỗ tôi và hắn đang đứng, trồng rất nhiều hoa, nhưng bên dưới những khóm hoa ấy tôi chôn những con mèo chết mà tôi nhặt được ngoài đường cùng những con mèo tôi nuôi nhưng bị bệnh chết, bị chó cắn hay xe cán chết. Và tôi có làm một tấm bia nhỏ để kỷ niệm. Tấm bia được viết bằng tiếng Pháp bởi vì tôi không muốn hàng xóm biết rằng đó là một nghĩa trang mèo, sẽ có lời đồn đại rất phiền phức.

Nào ngờ, khi thấy tấm bia, ngài quý tộc nọ tìm cách gây sự.

-Cái gì đây?

-Ông cứ đọc đi thì biết.

Hắn nghiêng mặt, nhìn những hàng chữ màu trắng khắc trên đá cẩm thạch đen. Tôi biết hắn chẳng hiểu những dòng chữ kia nói gì. Nhưng hắn không muốn để lộ điều đó, lại còn làm ra vẻ trịch thượng. Hắn hỏi:

-Cấm dẫn chó qua đây à?

-Đúng vậy. Để tôi dịch cho ông nghe nhé: Ici reposent mes chats errants có nghĩa: “Đây là vườn rau sạch”. Les enfants malheureux abandonnés par la société, có nghĩa là: “cấm dẫn chó ỉa đái bừa bãi”.




(NỘI DUNG BIA: “Nơi đây yên nghỉ những con mèo hoang của tôi, những đứa trẻ bất hạnh bị xã hội loài người vứt bỏ.”)

Hắn ngửa mặt cười dài, rồi dừng đột ngột, nhìn tôi với vẻ chế diễu.

-Mình là người Việt, viết tiếng Việt cho rồi. Bày đặt khoe tiếng Anh.

Nói xong hắn gật gù, gật gù… rồi tà tà dắt con chó ngao lảng đi.

Từ đó không hề dám dẫn chó bén mảng tới nữa.

25.NHỮNG ĐỨA CON

CỦA BÃO SỐ 9

(27/02/2019)

Người Việt mình thường đặt tên mèo là Mướp (vì hoa văn trên lông có sọc giống trái mướp), tên Vàng, tên Miu, tên Mun (vì lông đen như gỗ mun, thực ra chữ “mun” có nguồn gốc tiếng Pháp: moule, một loại nghêu bên châu Âu có hình dạng giống như con chem chép nhưng vỏ của nó đen như than đá, người Pháp, người Bỉ thường nấu súp với con moule này).

Tên của mèo Tây thường là: Kitty, Bella, Lucy, Charlie… hoặc Cheshire, chú mèo thần thoại trong phim Alice.

Bốn chú mèo con của tôi không thể mang tên Việt, cũng không thể mang tên Tây được, vì mẹ của chúng là cơn bão số 9, có tên quốc tế là Usagi. Cho nên về sau này tôi đặt tên cho chúng là Usagi.

Nếu như Tôn Ngộ Không được sinh ra từ một tảng đá, sét đánh bể đá, con khỉ chui ra, nên được gọi là Thạch Hầu, thì bốn chú mèo con của tôi cũng xuất hiện trong sấm sét nhưng lại không hề có được một bản lý lịch hoành tráng như Tôn hành giả.

Một thằng ranh con cưỡi chiếc xe gắn máy xuất phát từ một gia đình bất nhân thất đức nào đó, tay xách một cái bịch, đội mưa chạy ngang trước tiệm tạp hóa, nơi tôi đang đứng chờ mua thùng bia. Thằng quỷ nhỏ ấy ném cái bịch xuống giữa đường rồi vọt xe dong mất.


          Bốn anh em Usagi khi còn ở garage
       Mọi người chưa biết trong bịch có gì thì một cậu thanh niên từ trong garage kế bên tiệm tạp hóa chạy ra, xách cái bịch vô. Trong đó có bốn con mèo con sũng ướt, run lập cập, giương bốn cặp mắt ngơ ngác, sợ hãi nhìn mọi người.

Cô chủ tiệm tạp hóa bảo thằng nhỏ:

-Em nuôi chúng đi, làm phước.

-Sao chị không nuôi?

-Chị đang nuôi hai con. Và nhà của chị thì như cái lỗ mũi, hàng hóa chất lỉnh kỉnh.

Thằng nhỏ đi kiếm một cái thùng giấy rách te tua, bẩn thỉu như cái thùng rác. Nó ném bốn con mèo vào đó rồi nhặt miếng giẻ lau của garage nhét vô cho tụi nhỏ đỡ lạnh.

Những suy nghĩ trong đầu tôi đảo lộn, tìm một giải pháp.

Tôi đưa xe ra đường, chạy thẳng tới tiệm thú y, mua một cái lồng sắt rộng chừng một mét khối. Tạm thời chúng đã có một chỗ dung thân tương đối thoải mái. Thức ăn thì tôi sẽ cung cấp ngày hai bữa. OK! Thôi, các con cứ ở tạm cái garage này đi. Họ không đuổi là may rồi!

Buổi chiều tôi đến thăm chúng, thấy hộp thức ăn khi sáng tôi mua ở thú y đã hết sạch. Tôi cho chúng thêm một hộp cá nục hấp rồi đi về. Sáng hôm sau tôi lại đem cá đến. Hộp cá chiều hôm qua cũng sạch bách và mặt mày đứa nào cũng tươi tỉnh, chắc chắn tối qua chúng được no và ngủ một giấc ấm áp nhờ miếng giẻ của garage.

Tuy nhiên phân và nước tiểu mèo cũng bốc mùi hôi thúi.

Mỗi chuồng mèo đều có một cái máng bằng inox đặt bên dưới. Mỗi ngày người nuôi mèo phải rút cái máng ra rửa sạch, phơi khô rồi đút vô. Nhưng ở cái garage bề bộn, ồn ào và đen nhẻm này, mọi người đều bận rộn, chẳng ai làm chuyện đó cả.

Những ngày kế tiếp, phân và nước tiểu mèo càng đùn lên. Mùi hôi thúi càng nồng nặc.

Người chủ garage tỏ vẻ khó chịu nhưng có lẽ vì thấy tôi cũng đạo mạo, chững chạc, vả lại lũ mèo chẳng phải của tôi, mà tôi phải lo cơm nước cho chúng ngày hai bữa như thế, nên ông cũng ngại, không phàn nàn. Ông chỉ hỏi: “Sao anh không đem chúng về nhà mà nuôi?”. Tôi giải thích: “Nhà tôi cũng đã nuôi nhiều mèo. Lũ mèo chúng không chấp nhận mèo lạ đâu. Chúng sẽ đuổi đánh. Ngoài mèo nhà ra tôi cũng có nuôi cả chục con mèo hoang, nhưng chỉ có thể cho chúng ăn ngoài bờ sông, ngoài gốc cây, vỉa hè. Không thể đem vô nhà được”

Ngày kế tiếp, tôi quyết định rút cái máng phân ra rửa. Nhưng rửa ở đâu? Vòi nước? Lỗ cống?

Nhà của người ta, đâu phải mình muốn làm gì thì làm. Nhưng nếu tôi không làm thì ai làm? Nếu không ai làm thì lũ mèo sẽ ngập trong cứt đái, sẽ chết vì tiêu chảy, vì bệnh truyền nhiễm.

Tôi bàn với Nhu, chủ tiệm tạp hóa:

-Cháu dọn vệ sinh cho lũ nhỏ được không?

-Được. Để cháu làm cho.

Sáng hôm sau, khi tôi đem thức ăn đến thì thấy cái lồng mèo được đặt trước sân cửa tiệm tạp hóa. Bốn con đều trắng tinh như bốn cục bông gòn xinh xắn. Tôi chở nguyên lồng mèo đi thú y cho uống thuốc xổ lãi, xong đem về để vào chỗ cũ.

Nhưng chỗ đó là cái lề đường. Chỗ tạm.

Ngày hôm sau tôi đến thì cái lồng mèo biến mất. Những người trong garage đã nhét cái lồng trong xó kẹt, lẩn mất sau những cánh cửa xe phế thải, những lốp xe bể, những mâm bánh xe rỉ sét, những ghế nệm rách nát…

Không cách gì tôi có thể chui lọt vào cái đống phế liệu ấy để cho mèo ăn. Sau một hồi loay hoay luồn lách, tôi cũng đến được cái lồng mèo. Nhưng khi bước ra thì quần áo dính đầy bụi đất và cả dầu nhớt lẫn cứt mèo!

Tôi gặp cô chủ tiệm tạp hóa:

-Chú đầu hàng. Chỉ còn cách cưa đôi. Chú nuôi 2 con, cháu 2 con.

Quyết định ấy về sau sẽ gặp rất nhiều trở ngại. Nhưng nếu không, lũ nhỏ sẽ chết hết.

26.NHỮNG TRỞ NGẠI

KHI ĐƯA USAGI VỀ NHÀ

(6/3/2019)

Nếu bạn đang độc thân và thương mèo thì muốn nuôi bao nhiêu con cũng được. Nhưng chỉ cần có gia đình – dù là vợ chồng son – thì đã phức tạp rồi, thậm chí hai vợ chồng có thể chia tay chỉ vì một trong hai người không thích mèo. Huống chi tôi có cả một gia đình lớn.

Và… ba con mèo nhà đang làm chủ một lãnh thổ 1.000 mét vuông dọc bờ sông, trước nhà, với cây cối um tùm, hoa trái đủ thứ.

Chúng không cho phép con vật lạ nào xâm nhập vào lãnh thổ đó.

Ngay cả trong nội bộ, Xíu và Vừng cũng thường xung đột. Tuy ở chung nhà đã hai năm nay nhưng hai đứa không chơi với nhau, thỉnh thoảng đánh nhau.

Chúng giàn trận, thủ thế, gầm gừ, giương nanh vuốt rồi bất ngờ xông vào cắn xé, vật lộn.

Sau trận đấu, nếu thấy lông con nào rụng nhiều (căn cứ vào màu lông) thì tức là nó đã thua. Nhưng nếu tôi ôm con thua vuốt ve an ủi, thì coi như là tôi đã thiên vị nó. Nó cảm thấy mình được sủng ái, liền vùng ra, phóng tới, đầy tự tin và quyết liệt, khiến đối thủ phải bỏ chạy.

Nhưng Mướp thì khác. Mỗi khi nó đến gần, chờ tôi vuốt ve nhưng vì bận việc tôi không để ý đến, thì nó chui vào gầm giường nằm im, gọi không thèm nghe, năn nỉ không nhúc nhích, đưa thức ăn tận miệng ngó lơ, từ sáng đến chiều tối không “đụng đũa”.

Đặc biệt Xíu phu nhân còn biết dùng đòn cân não để thăm dò mức độ tình cảm của “người đàn ông mà mình yêu” như thế nào.

Khi tôi đem Vừng (mèo hoang) về nhà, Xíu đứng kênh một lúc, rồi gầm gừ bằng giọng “Bắc-kỳ-Hồng-Vân”:

-Mày là đứa nào mà dám đến nhà bà?! Cút xéo!

Tôi sợ xảy ra xung đột vũ trang nên bế Vừng lên. Xíu không nói một lời. lẵng lặng quay lưng đi. Tiến thẳng ra cổng.

Trưa đó, nó không về ăn. Chiều cũng biệt tăm. Tôi tìm khắp những nơi nó thường trốn: tủ áo, gầm giường, các bụi cây, khóm hoa… vừa đi vừa gọi một cách dịu dàng âu yếm.

Buổi tối nó cũng không về. Tôi vốn yếu bóng vía. Hễ đàn bà con gái giận lẩy bỏ đi biệt tích là sợ lắm, mất ăn mất ngủ. Còn khóc nữa chứ!

                         Xíu

       Bốn giờ sáng đã dậy. Mở cổng. Thấy Xíu Ngọc Trinh nằm lim dim trên ghế đá trước nhà. Lật đật ẵm vô, vừa hôn, vừa vuốt, vừa thủ thỉ.

Nhưng nó ăn xong bữa sáng thì lại biến mất. Suốt ba ngày như thế. Không biết nó trốn ở khách sạn nào.

Cuối cùng, vì tôi biết nó cũng rất thương tôi, nên tôi bắt chước nó chơi đòn cân não. Buổi tối, khi các nhà hàng xóm đã ngủ hết, tôi ngồi một mình trên vỉa hè, dưới gốc cây bàng, hút thuốc.

Tôi đóng vai một người tình đau khổ.

Tôi biết nó chỉ trốn đâu đó quanh đây thôi, và nó đang chứng kiến nỗi cô đơn sầu thảm của tôi, sẽ cảm động mà “trở về Soriento”.

Cứ năm phút tôi lại gọi:

-Xíu ơi! Về nhà, con!

Hình như có cánh cửa nhà hàng xóm nào đó hé mở rồi đóng lại liền.

-Xíu ơi! Về nhà, con!

Đó là lần gọi thứ 1001. La Belle au Bois Dormant đã thức dậy và xuất hiện trên mái ngói của một nhà hàng xóm.

Tôi đưa hai tay ra và “Nàng Công Chúa Ngủ Trong Rừng” bước những bước chậm rãi, quý phái, trên những viên ngói đen như một vệt sáng huyền thoại giữa đêm trường.

*

Còn Vừng, tuy là mèo đực, nhưng lại là đứa mang nữ tính đậm nét nhất.

Khi Vừng còn là mèo hoang, tôi thường gặp nó mỗi chiều tại đống gỗ phế thải của nhà hàng xóm. Ở phần trước của tác phẩm này tôi đã kể nhiều kỷ niệm đau buồn giữa chúng tôi từ khi nó còn là một hài nhi bi vứt trong bãi rác.

Lúc nó đươc 6 tháng tuổi, bọn trộm mèo đã làm một cuộc càn quét lớn. Vừng đã sống sót và tạm trú trong cái nhà kho bỏ hoang của người hàng xóm. Tôi tiếp tục nuôi nó cho đến khi nó trở thành một chàng trai đẹp đẽ, cường tráng, nhưng đó cũng là lúc nó trở thành miếng mồi ngon cho bọn trộm mèo, chó thường xuyên rình rập.

Chiều nào, khi đem thức ăn đến, Vừng cũng lại gần tôi, nhưng lúc nào nó cũng giữ một khoảng cách. Thỉnh thoảng nó cũng cho tôi vuốt ve nhưng mỗi khi tôi định bắt, thì nó vuột thoát rất nhanh.

Những ngày sau đó nó không dám lại gần tôi nữa. Nhưng khi tôi bỏ đi thì nó chạy theo cho đến tận cổng nhà.

Tôi ngồi xuống bên nó.

-Vô ngủ với ông ngoại, nha?

Nó nhích tới một bước. Rồi dừng lại. Tôi lại ghế đá ngồi, nó chạy theo, nhảy lên ngồi cạnh, nhưng khi tôi đưa tay định vuốt đầu thì nó bỏ chạy.



                 Vừng trong phòng ông ngoại
       Những trò “mèo vờn nhà văn” như thế lập đi lập lại nhiều lần khiến tôi bực tức.

Tôi bước vô cổng, khóa lại. Nhưng nhìn qua khe hở lại thấy nó ngồi trên ghế đá nhìn vô nhà.

Tôi bỏ mặc. Đi ngủ.

Vài ngày sau, nó cho tôi vuốt ve trong lúc ăn. Tôi nói:

-Về nhà ở với ông ngoại nha? Ở đây tụi nó sẽ bắt và giết con như đã từng bắt em gái của con đó. Nhớ không?

Nói xong, tôi định bế nó nhưng nó bỏ đi. Rồi dừng lại, nhìn tôi.

Tôi ngồi xuống lề đường, vẫy tay gọi:

-Lại đây! Ông ngoại ẵm về coi ti-vi.

Nó vẫn đứng im. Rồi bỗng nhiên, nó nằm xuống. Nằm ngửa, phô chòm lông trắng dưới bụng. Nó lăn qua lăn lại, ra dáng nũng nịu, mời gọi, khuyến khích. Cứ y như đàn bà vậy, mặc dù nó là một con mèo đực.

Quả nhiên khi tôi đến gần, nó không bỏ chạy nữa. Nó ngoan ngoãn cho tôi bế lên phòng, đặt nó nằm trên bàn vi tính.

Nhưng nó không nằm. Nó đứng quan sát chung quanh. Rồi nhảy xuống đất, đi vòng vòng, xem cái thế giới quanh nó là gì. Nó ngửi mọi thứ. Nó chui vào kẹt tủ. Nó nhảy lên tủ sách ngắm nghía rất lâu, rồi soi bóng mình hiện lờ mờ trên màn hình ti-vi.

Tôi nói:

-Để ông ngoại mở ti-vi cho con coi nhé?

Nhưng ti-vi vừa bật lên thì nó bung ra như một tia chớp, biến mất dưới gầm giường.

Những hình ảnh và tiếng động trong ti-vi giống như một cuộc đột kích. Giống như sự xuất hiện của con quái vật mà nó chưa từng gặp trong đời.

Tôi tắt ti-vi, ném cái gối xuống nền nhà rồi nằm lăn ra đó. Hai bên đều nằm dưới đất, đều nhìn nhau, nhưng tôi không cách gì làm cho nó hiểu rằng ở đây không hề có một mối đe dọa nào cả, rằng ở đây rất an toàn.

*

Tôi giới thiệu khá dài dòng về tính cách của những con mèo nhà tôi chỉ để hỏi một câu: “Nếu là bạn, bạn sẽ đưa hai con mèo lạ về sống chung với gia đình mình bằng cách nào?”

Khó quá phải không?

Vậy mà tôi đã đưa được hai con Usagi về, trước những cao thủ to khỏe, như các cận vệ của tổng thống Mỹ. Đó là: Xíu, Mướp và Vừng.

Nhưng chuyện đó sẽ được kể ở những chương sau.

27.CHÚNG TA LÀ

CẢ CUỘC ĐỜI CỦA CHÚNG

(08/3/2019)

THEY MAY BE A PART OF OUR LIFE BUT WE ARE THEIR WHOLE LIFE.

Usagi được bí mật đưa về trong một chiếc lồng kín, thẳng lên sân thượng. Trước đây đó là giang sơn của Vừng. Nhưng Vừng không hề hay biết vì lúc đó nó đang cùng với Mướp rình mấy con chim trong đám cỏ cao ngoài vườn. Xíu thì nằm ngủ trên ghế sofa trong phòng khách, không hề hay biết rằng lãnh thổ của mình vừa có thêm hai người khách từ chuồng cọp Côn Đảo về.

Thực tế, chiếc lồng sắt đầy cứt đái trong cái garage tối tăm kia còn rùng rợn hơn là nhà tù Côn Đảo.

Việc đầu tiên là tắm rửa, sưởi ấm cơ thể, cho ăn no rồi ngủ. Sáng hôm sau cho đi xổ lãi và khám mắt. Hai con mèo nhỏ làm chủ một cái sân thượng rộng 80 mét vuông với đầy đủ nơi ăn chốn ở ấm áp, sạch sẽ, ánh sáng chan hòa.

Vài ngày sau, những người tù đã biến thành những vận động viên nhảy cao, nhảy xa và leo núi chuyên nghiệp. Chúng mới hai tháng tuổi nhưng quậy phá như những đứa trẻ lên ba, hiếu động, không lúc nào chịu ngồi yên, không đập đổ cái này thì cũng cắn xé cái kia, lật tung cái nọ. Thùng rác, tô thức ăn, vòi nước, ghế, võng… đều biến thành đồ chơi của chúng.

Còn cái thân già của tôi? Bạn nghĩ chúng coi ra gì? Ông chủ? Ông ngoại? Ân nhân cứu mạng?

Đừng có mơ!

Trong số những đồ chơi của mèo bày bán ở các tiệm thú y, có những cái cột tròn bằng gỗ được bọc vải bố dày, để cho các chú mèo mới lớn  cào móng. Cũng giống như người đang học guita classic mỗi ngày đều phải tập “chạy ngón” mấy tiếng đồng hồ cho thật “nhuyễn” rồi mới tập các études trong Carulli được.

Thế đó. Tôi đã biến thành miếng vải bố để hai con Usagi tập cào móng. Hai cánh tay, hai bắp vế, ngực, bụng, cổ… đều được chúng chạm trổ chi chít những hoa văn kỳ quái chỉ được tìm thấy trong các hang động của người tiền sử thời Đồ Đá.

Ngày nào cũng có thương vong. Máu đã đổ nhưng đầu thì chưa rơi, vì mỗi lần đến chơi với chúng tôi đều phải đeo kính trắng để bảo vệ cái đầu, đặc biệt là hai con mắt.

Chúng nhanh như điện xẹt. Mình đang nằm trên võng nhìn trời. Bỗng “xẹt” một cái, chúng đã cưỡi trên đầu mình. Chỉ cần cú nhảy ấy chệch một ly là những móng vuốt đã bấu vào mắt. Nhà văn biến thành hiệp sỹ mù ngay!

Bạn sẽ hỏi tôi: “Nguy hiểm vậy sao còn chơi với chúng?” Xin thưa: chơi với chúng cũng giống như chơi với phụ nữ. Biết là sẽ bỏ mạng, sẽ nhà tan cửa nát, thân bại danh liệt… nhưng vẫn cứ nhào vô.

Bạn sẽ hỏi tiếp: “Nhưng đàn bà thì có nhan sắc có các ngón nghề mà mình khó cưỡng, còn mấy con mèo con thì có cái quái gì?”

Xin thưa: “Chúng chẳng có cái quái gì cả. Nhưng chúng đang rất cần tôi”.

Sáng sớm khi thức dậy là tôi biết chúng đang ngóng chờ tôi đến mở cửa lồng. Bốn con mắt đều nhìn về phía cửa sân thượng.

Tôi mở cửa và cho chúng ăn. Nếu không có tôi, chúng sẽ đứng chờ như vậy suốt ngày.

 Cho chúng ăn xong tôi phải xuống phòng làm việc. Khi quay lưng đi, ngoái nhìn, lại thấy bốn con mắt thơ ngây đang dõi theo, như muốn hỏi: “Sao ông ngoại bỏ tụi con? Có chuyện gì mà gấp vậy?”

Sức mạnh của những cái nhìn ấy nhiều khi còn làm tôi xót xa hơn cả những đôi mắt giai nhân.

Nhưng không phải chỉ có buổi sáng. Chính buổi tối mới thực sự ràng buộc tôi với những sinh vật bé mọn ấy.

 Sáu giờ chiều, tôi đem cơm lên sân thượng cho Usagi ăn rồi xuống bếp ăn cơm. Bảy giờ, dạy cháu nội học tiếng Anh. Tám giờ, lùa 3 em Xíu, Vừng, Mướp vô phòng và đặt khay thức ăn cho mèo hoang ở gốc cây, xong trở lên sân thượng chơi với hai bé Usagi. Tôi phải quan tâm tới chúng vì chúng không có mẹ và vì chúng chỉ là những đứa trẻ mới hai tháng tuổi.

Chúng biết giờ đó tôi sẽ đến nên cả hai đứa đều ngồi trên nóc chuồng chờ tôi, mặt hướng về phía cửa sân thượng. Hai cái bóng trắng nhỏ xíu, đơn độc, bất động, âm thầm trong tối. Tôi bật đèn. Và chúng chạy đến, đứng chờ sau cánh cửa.

Tôi bước ra, ngồi trên võng. Và chúng chạy đến, nhảy lên. Hai đứa nằm hai bên hông. Tôi bế cả hai vào lòng, vuốt ve, ôm ấp chúng, để nghe chúng rên rỉ, sung sướng, hạnh phúc. Tôi cũng hạnh phúc.

Hai chị em Usagi nằm trên mình ông ngoại

Sau đó là những màn trình diễn nhào lộn, đấu vật, những cú nhảy mạo hiểm của những cascadeurs nhà nghề.

Không có tôi, chúng chỉ là những cục bột, những đồ chơi bất động, buồn hiu trên nóc chuồng. Tôi đến. Chúng được kích hoạt, được nạp năng lượng, được bừng tỉnh, tỏa sáng như những thiên thần.

Và lập tức, tôi biến thành miếng vải bố, thành tấm bia để chúng thực tập bản năng săn mồi, để chúng mài dũa móng vuốt.

Nhưng tôi tự nguyện, tôi hạnh phúc được làm món đò chơi cho chúng. Chúng không cần biết tôi đang nghĩ gì. Chúng không cần biết tâm trạng của tôi. Chúng không cần biêt tôi là ông ngoại, là cứu tinh, là mẹ, là ân nhân, là thần hộ mệnh của chúng.

Chúng chỉ là những đứa trẻ nghịch ngợm, ngây thơ, trong sáng. Chúng sống theo bản năng. Và chúng rất đáng yêu. Sao tôi có thể không cho chúng cào cấu, cắn xé? Sao tôi có thể tiếc một chút máu, một chút thịt da, một chút đau đớn… cho một hạnh phúc hồn nhiên và thiêng liêng của một sinh vật bé bỏng mà tạo hóa đã dày công sáng tạo bằng cả tình yêu, bằng cả thiên tài và sự huyền diệu của mình?

Chúng thiêng liêng và vô cùng quý báu. Nhưng, cũng như tôi, cũng như cả loài người, đều chung một thân phận. Đó là sự hữu hạn. Là cái chết không tránh khỏi. Nhưng chúng bi thảm hơn con người vì chúng quá mong manh và không được ai bảo vệ. Chúng sống giữa chúng ta, nương tựa, phụ thuộc, nhờ cậy chúng ta.

Chúng là một phần của cuộc đời chúng ta, nhưng chúng ta là cả cuộc đời của chúng. They may be a part of our life but we are their whole life.

Bạn ơi, hãy nhớ rằng đối với chúng, thì chúng ta quan trọng biết nhường nào!

28.XÂM NHẬP TRÁI PHÉP

(09/3/2019)

Đang ngồi ăn sáng trong bếp, bỗng nghe tiếng mèo gào thảm thiết. Thỉnh thoảng vẫn có vài con mèo hoang mò vô nhà kiếm ăn và bị bộ ba Xíu, Vừng, Mướp vây đánh. Cuộc đụng độ chớp nhoáng, kẻ lạ tháo chạy, và mọi viêc trở lại bình thường. Nhưng lần này mèo gào liên tục, yếu ớt, thảm thiết. Đó là dấu hiệu bất thường. Tôi chạy ra phòng khách. Ba người lính ngự lâm bỏ chạy.

Quan sát hiện trường không thấy vết máu, không thấy đổ lông, định bỏ đi thì nghe một tiếng động nhỏ dưới gầm sofa. Cúi xuống, thấy một con mèo nhỏ lông trắng đang nằm im. Đó là Usagi đuôi đen. Tại sao nó bị nhốt trên sân thượng mà lại nằm đây?

Tôi bế nó lên. Mềm nhũn như miếng giẻ rách. Đặt nó xuống đất, nó bước vài bước chậm chạp, yêu ớt. Khám khắp người không có vết máu, nắn các khớp xương, không có gì bất thường. Có lẽ nó chỉ bị khủng bố tinh thần nên khiếp đảm.

Tôi đem nó lên sân thượng đặt vào lồng. Nó năm bẹp. Tôi nghĩ, chỉ trong vài giờ là nó bình phục. Nhưng không, đến chiều nó vẫn nằm bẹp, bỏ ăn.

Buổi tối tôi phải tạm thời cho Vừng và Mướp ngủ ở cầu thang, nhường chỗ nằm trên giường cho hai anh em Usagi. Tôi bế Usagi cho nằm bên hông tôi, phòng khi bất trắc, còn em nó Lucky (cô Dianne Tran đặt tên Việt là May Mắn, tôi đổi thành tên tiếng Anh cho đồng bộ với anh nó) thì nằm dưới chân. Nhưng Lucky đâu chịu. Hai anh em nó thường đùa giỡn suốt ngày với nhau nên Lucky cứ nhào tới ôm, vật, cắn xé… Usagi không còn sức để nô đùa. Nó rên. Nó muốn tránh mà tránh không nổi.

Nó vẫn không ăn uống gì. Nếu không ăn thì nó sẽ chết. Tôi nghĩ có thể nó bị nội thương trầm trọng, bị xuất huyết bên trong hay bị bầm dập một bộ phận nào đó.

Hôm ấy là ngày mồng hai Tết nguyên đán. Tất cả các tiệm thú y đều đóng cửa. Tôi gọi điện cho một bác sỹ quen, thuật lại tình huống, mô tả các triệu chứng. Bác sỹ nói:

-Mùng 9 cháu mới mở cửa.

-Vậy theo cháu thì nó bị gì?

-Có thể bị viêm một bộ phận nào đó bên trong. Chú có thể mua Ampicicline của người, cho nó uống cũng được. Nửa viên thôi.

Tôi lấy xe đi mua thuốc. Ngang qua một tiệm thú y khác, thấy có ánh đèn, tôi tấp xe vào. Cửa khóa bên trong. Tôi bấm chuông.

-Ai đấy?

-Mèo bệnh sắp chết. Cấp cứu giùm, bác sỹ!

-Mùng 6 mới mở cửa.

-Cấp cứu mà! Sao đợi tới mùng 6 được!

Bà bác sỹ mở hé cánh cửa.

-A! Anh nhà văn hả? Nể anh lắm tôi mới mở cửa nhé.

8 giờ tối mồng 2 Tết, tôi đem Usagi tới. Bà bác sỹ chích cho 4 mũi, trong đó có một mũi kháng sinh. Thêm một viên thuốc kích thích ăn. Sáng mồng 3 Usagi liếm láp được chút cá. Tiếp tục đi thú y thêm hai lần nữa.

Mồng 4 bắt đầu ăn. Mồng 5 nhảy lên võng. Mống 6, cùng Lucky chơi trò “đi trốn đi tìm”. Mồng 7 siêu quậy.

Tôi vừa mừng cho nó, vừa mừng cho Lucky. Và cho tôi. Nếu nó chết, Lucky sẽ thui thủi một mình. Chơi một mình, ăn một mình,  ngủ một mình trên sân thượng vắng vẻ, tội nghiệp biết chừng nào! Còn tôi, phải mất một thời gian dài để đàm phán với ba “ông kẹ” mèo nhà để đưa nó xuống phòng ngủ chung!

Lại thêm một cái Tết đầy bận rộn, lo âu, tất tả… nhưng mọi thứ đều đã đi qua. Chúc mừng năm mới!

29.NHỮNG MÔ HÌNH

NUÔI MÈO HOANG

(16/8/2019)

Bạn nghĩ gì nếu có một người nào đó hoặc một tổ chức từ thiện nào đó đi gom những con mèo hoang bị vứt ra đường, sống vất vưởng, đói rét, bệnh tật… đem về nuôi?

Tất nhiên đó là một nghĩa cử đẹp, một hành động nhân đạo đáng trân trọng.

Nhưng ở đây tôi muốn đặt một câu hỏi: Bạn đem về nuôi chúng như thế nào?

MÔ HÌNH THỨ NHẤT:

Bạn có một khu đất rộng chừng 500 mét vuông trở lên, có vườn tược, cây cối cho mèo leo trèo, có sân rộng cho chúng chạy nhảy, đùa giỡn, có chuồng trại thoáng khí, sạch sẽ, có chỗ cho chúng đi vệ sinh (hệ thống nước rửa hoặc bãi đất cát trống đủ để chúng đi vệ sinh xong tự lấp đất chôn phân, nước tiểu…), có đủ thực phẩm cho chúng ăn no, phát triển bình thường, có sự chăm sóc y tế để bảo đảm sức khỏe cho chúng và quan trọng nhất là có bác sỹ thú y triệt sản thường xuyên cho chúng mỗi khi chúng tới tuổi động dục.

Tại sao chúng tôi đặt vấn đề triệt sản lên hàng đầu?

Để bạn thấy tầm quan trọng của việc triệt sản, chúng tôi xin nêu mấy con số sau đây:

Chỉ trong vòng 6 năm, một con mèo cái, và các thế hệ con cháu nối tiếp của nó, có thể sinh ra tổng cộng 420.000 chú mèo con…

Một con số rất kinh khủng!

Với số lượng mèo nhiều như thế, chúng ta sẽ không đủ sức chăm lo, nuôi nấng.

Mèo con sẽ phải lang thang đầu đường xó chợ, làm mồi cho chuột cống, chó hoang. Chúng còn có thể bị xe cán chết, bị con người đập chết, bỏ bã… vì chúng quá đói phải lẻn vào bếp ăn vụng.

Triệt sản mèo có tác dụng hạn chế sự bùng nổ “dân số” mèo, nhưng không hề làm cho loài mèo tuyệt chủng. BỞI VÌ NÓ GIỐNG NHƯ CHÍNH SÁCH SINH ĐẺ CÓ KẾ HOẠCH TRONG XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI vậy.

Triệt sản là biện pháp hợp lý và hữu hiệu nhất nhằm xóa bỏ thảm cảnh từng đàn mèo con bị bỏ lăn lóc, chết dần chết mòn… đầy dẫy trong xã hội.

Nếu chúng ta gom mèo hoang về nuôi trong những điều kiện nêu trên thì đó là một mô hình lý tưởng.

Tôi đã từng tham quan một số ngôi chùa, một vài tổ chức từ thiện cá nhân hay tập thể, nuôi mèo như thế. Đó là mô hình cực tốt, đáng được nhân rộng cả nước, thậm chí cả thế giới, nếu chúng ta có điều kiện.

Tôi vẫn nghĩ nhà nước nên vào cuộc, bởi vì chi phí cho một trại mèo như thế không thấm vào đâu so sới sự lãng phí vô độ nhan nhản trong xã hội ngày nay, chỉ làm cho dân mất niềm tin mà thôi.

MÔ HÌNH THỨ HAI:

Nếu nhà bạn có một khu vườn nhỏ rộng chừng trăm mét vuông, trồng một ít cây cối, rau cỏ, hoa trái, thậm chỉ là cỏ dại… thì đó là môi trường lý tưởng để nuôi từ năm đến mười con mèo vì có chỗ để chúng chạy nhảy vui chơi, trau dồi bản năng săn mồi.

Với khoảng không ấy, mèo có thỗ đi vệ sinh sạch sẽ, không khí trong lành, hạn chế bệnh tật. Bạn có thể cho chúng ăn dưới các gốc cây hay tập trung cho ăn trong sân vườn. Ban ngày chúng muốn ngủ đâu thì ngủ, ban đêm chúng có thể vô ngủ trong nhà, trên gác bếp, bàn làm việc, trên giường, đầu tủ, kệ sách, gầm giường… Chúng cũng có thể ngủ ngoài sân vườn miễn là vườn có rào kín, để những “kẻ địch” không thể xâm nhập, làm hại chúng.

Tất nhiên triệt sản vẫn là điều kiện ưu tiên hàng đầu và bắt buộc.

Nếu ở cái đất Sài Gòn này mà có chừng 100.000 gia đình áp dụng mô hình này thì sẽ có cả triệu con mèo hoang, mèo con mồ côi được cứu.

Và sẽ không còn thảm cảnh mèo con bị vứt ra đường nằm chết đầu đường xó chợ.

MÔ HÌNH THỨ BA:

Bạn thuê một căn nhà và dành một phòng rộng chừng 30 mét vuông để nuôi mèo.

Ban đầu là vài chục con, dần dần bạn ra đường thấy mèo bị vứt lăn lóc, đói rét, bệnh tật… thương tình đem về nuôi. Số mèo tăng dần lên đến bốn năm chục con.

Bạn bắt đầu tìm người tài trợ.

Thỉnh thoảng có người đem vài con mèo con đến nhờ nuôi giúp và đưa cho bạn một triệu. Ít lâu sau, lại có người đem năm ba con tới gởi, và cho bạn vài ba triệu.

Bạn trở nên nổi tiếng. Người ta không cần đem mèo tới nữa. Họ chỉ cần gọi điện cho bạn: “Tôi có bảy con mèo con, nhờ bạn đến nhận nuôi giúp, tôi sẽ ủng hộ 5 triệu”…

Và bạn lập tức chạy xe đến.

Số mèo đã tăng lên gần trăm con.

Và chúng không hề được triệt sản. Vì bạn không ý thức được tầm quan trọng của việc đó.

Ngày nọ, bạn thấy một con mèo cái có bầu. Khi nó sắp sinh thì bạn lại phát hiện thêm ba con mèo cái khác đang mang thai. Cứ thế, chúng lớn lên. Nhiều thế hệ sinh sôi nảy nở. Dân số tăng lên gần hai trăm, sống chen chúc trong một căn phòng chỉ rộng 30 mét vuông, đóng kín cửa 24/24. Và 24/7.

Đây là mô hình rất sai lầm. Tôi sẽ dành một phần cuốn sách này để mô tả sự sai lầm ấy.

30.CHÀNG DON QUIXOTE

XUỐNG ĐỊA NGỤC

(20/8/2019)

Tôi đã từng “dính” vào một trại mèo thuộc “mô hình thứ 3” như thế.

Nghe nói có một trại mèo cần giúp đỡ. Và tôi đã đến. Đến như chàng hiệp sỹ Don Quixote xứ Mancha (Don Quijote de la Mancha)

Cửa phòng vừa hé mở, một cơn gió tanh tưởi từ đáy địa ngục tràn đến như đợt sóng, đẩy tôi bật vào tường. Cánh cửa đóng ập, và tôi thấy một rừng mắt mèo mọc chi chít như những chùm sáng đục trong một mật thất ẩm mốc.

Tôi không nhìn thấy con mèo nào dưới sàn nhà. Đèn bật sáng. Và trong cái khoảng trống 30 mét vuông của nền nhà là một thứ bùn nhão xỉn màu, vừa nâu, vừa đen, vừa lốm đốm máu tươi.

Đó là cứt mèo. Cứt mèo dày đặc, trầm tích từ thời tiền sử, đùn lên từ đáy của một địa ngục cổ đại lạnh buốt, rầm rì những sóng âm cộng hưởng, xô dạt, ma quái.

Lũ mèo không còn chỗ để đứng. Lũ mèo không muốn bị chìm trong cứt và nước tiểu của chính mình. Chúng nhảy lên những cái kệ rỉ sét, co cụm, chen chúc, từng chùm, từng chùm, như những bầy dơi trong các thạch động bị bỏ quên từ kiếp trước.

Tôi bật thêm một ngọn đèn nữa và mấy cây quạt trên tường.

Những cặp mắt mèo nhìn tôi không chớp. Chúng không hung dữ, không xoi mói, không đe dọa, cũng không chờ đợi gì, không cầu xin gì. Chúng thất thần. Những chùm mắt khô héo và lạnh. Những chùm mắt bạc nhược, ngơ ngác và sợ hãi.

Chàng Don Quixote đứng im. Vì không muốn bị cứt đái vây phủ. Vì chàng cần thở. Và cần sống sót.

Nhưng hơn hai trăm con mèo đủ mọi lứa tuổi kia thì đã sống trong căn phòng ba chục mét vuông này, trong cái trại tập trung của bọn Đức Quốc Xã này, trong cái địa ngục tanh tưởi này… nhiều năm nay.

Chúng từ đường phố, bãi rác, bờ sông… chúng từ đầu đường xó chợ, từ vỉa hè, hang hóc, bụi cây, từ vất vưởng, phất phơ, từ trôi dạt, nheo nhóc, đói lạnh, từ sợ hãi, đe dọa, bạo ngược… được gom về đây.

Về đây. Đây là đâu?

Là một địa ngục đã rỉ sét, mục nát, xác xơ và tanh tưởi.

Đây là đâu? Là một nhà tù biệt giam kín bưng, nồng nặc. Không có không khí để thở, không còn một khoảng trống nào trên nền nhà để đặt chân.

Đây là đâu? Không trả lời được, vì lũ mèo không biết nói. Nhưng chúng cũng không còn sức để kêu meo meo. Một bầy mèo im lặng. Một nhà tù im lặng. Một trại tập trung của những sinh vật câm, điếc, sống sót nhờ một chút cơm trộn với đầu cá, chân gà, đầu thừa đuôi thẹo bầy nhầy đủ loại thịt nhặt nhạnh từ các chợ cá, từ những sạp bán thịt.

Và sống sót nhờ những hột thức ăn pha chế sẵn màu đỏ đựng trong những bao lát mà các nhà hảo tâm đem đến, chất đống trong xó nhà đến mốc meo, mục nát.

Cánh cửa sịch mở. Và những hạt thức ăn màu đỏ ấy được tung ra như trận mưa rào trút xuống cái nền nhà đầy cứt đái ngàn năm văn vật ấy.

Nhưng cái đám sinh linh ốm đói kia bất chấp dơ dáy, bất chấp tanh tưởi, bất chấp cứt đái thâm căn cố đế, nhào xuống nhặt nhạnh từng hột, từng hột đỏ như máu, lẩn lộn trong cứt đái, đờm dãi và bầy vi trùng truyền kiếp, nuốt vào bụng, nhai trộn trạo, bê bết mặt mũi, chân tay… để được sống sót.

Và trận quyết đấu sinh tồn ấy đã diễn ra trong tuyệt đối im lăng. Tưởng như không phải đàn mèo đang ăn mà là những bóng ma đang ăn trong cõi chết.

Tôi ôm mặt. Chỉ muốn gào lên như một thằng điên.

Tôi chạy ra khỏi chín tầng địa ngục. Hoàn toàn sụp đổ và tuyệt vọng.

Khi đã lấy lại bình tĩnh, tôi hỏi người chủ nhà:

-Bây giờ ông cần gì?

-Tiền.

-Không. Không phải tiền. Những con mèo đang cần một cái nền nhà sạch sẽ. Cần dọn sạch, thật sạch cứt đái, đờm dãi. Cần vệ sinh chuồng trại gấp. Rất gấp. Nếu không chúng sẽ lây bệnh cho nhau và chết hết.

Quanh chỗ tôi đứng rải rác những con mèo con đang hấp hối, mấy con mèo chết nằm cong queo trong xó, những cái lồng sắt thì đầy những con mèo rụng lông, lở lói, ủ rũ, run rẩy…

Chủ trại mèo nói:

-Nhưng để làm được những việc ông vừa nói thì phải cần tiền.

-Sao ông không dọn vệ sinh cho chúng?

-Ba ngày tôi mới dọn một lần. Một mình tôi không làm nổi.

-Tôi biết có nhiều mạnh thường quân đã tới đây cho tiền, sao tình trạng lại tồi tệ đến như thế này? Sao không thuê người?

Không có câu trả lời. Ông chủ châm một điếu thuốc, nhả khói mù mịt. Tôi nói:

-Tôi chỉ là một cán bộ hưu trí. Tôi không giàu. Tôi về hưu đã mười năm rồi. Nhưng tôi muốn cứu những con mèo. Nếu ông cho phép, tôi sẽ làm theo khả năng của tôi. Làm như thế nào thì hiện giờ tôi chưa biết.

Ông chủ im lặng, ném tàn thuốc ra ngoài sân rồi bỏ đi.

31.CHÁY TÚI

(23/8/2019)

Sáng hôm sau Don Quixote đi lãnh lương hưu ở bưu điện được hơn 5 triệu đồng và quyết định tìm một tiệm thú y gần trại mèo nhất. Chàng đi một mình. Tối qua người hầu Sancho nhậu say nên hãy còn ngủ. Chàng cột con ngựa sắt già nua tên Honda, đã theo chàng chinh chiến hơn hai mươi năm nay, vào trụ điện, rồi bước vô tiệm.

-Tôi cần chữa bệnh cho 10 con mèo.

-Mèo lớn hay mèo con?

-Cả hai.

-Chúng bệnh gì hả chú?

-Tiêu chảy, chốc lở, rụng lông. Có đứa mù mắt, què chân.

-Mời chú vô đóng tiền. Mỗi mũi thuốc 60 ngàn đồng.

Hiệp sỹ vừa móc ví tiền vừa nghĩ: Rẻ, ở đây rẻ quá! Gần nhà mình chúng nó chích một mũi 100 ngàn.

Don Quixote đóng tiền, lấy hóa đơn xong thì gọi cậu y tá đi liền. Chàng nghĩ, ông chủ trại sẽ vui mừng khi thấy chàng dẫn thú y đến.

Nhưng ông ta đã nhìn chàng với cặp mắt lạnh lùng.

-Lần sau có đến thì phải gọi điện báo trước.

Cậu thú y lôi mèo từ trong xó xỉnh, từ trong chuồng… ra chích. Chàng rất ngạc nhiên là mỗi con mèo có mỗi bệnh khác nhau nhưng cậu ta đều chích cùng một thứ thuốc, lấy từ một chai thuốc duy nhất.

Don Quixote hỏi:

-Mai có chích nữa không?

-Có chứ. Mỗi con chích ba ngày.

Ông chủ trại mèo nãy giờ ngồi trên chiếc ghế nhựa hút thuốc, thản nhiên, lạnh lùng nhìn “thầy trò” Don Quixote “tác nghiệp”, bỗng nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống sàn nhà, hỏi:

-Bao nhiêu tiền một mũi?

Hiệp sỹ đáp:

-Sáu chục ngàn.

Lão chủ gật gù, lẩm bẩm:

-Sáu chục. Sáu chục… Thú y nhà nước chích có 12 ngàn một mũi.

Don Quixote cảm thấy mình bị xúc phạm, liền móc cái hóa đơn ra, đưa cho lão:

Đây! Chứng từ đây. Ông hỏi thằng nhỏ này xem.

Lão chủ không thèm nhìn tờ giấy, lim dim đôi mắt. Cậu thú y nói:

-Tụi con là thú y tư nhân. Chỗ nào cũng sáu chục ngàn. Đi đâu cũng vậy thôi.

Hôm sau Don Quixote đến tiệm thú y đóng tiếp 420.000đ cho bảy con mèo ngày hôm ấy, rồi bảo nó tự đến chích. Chàng thấy mình không cần phải đến nữa.

Mười một giờ trưa cậu nhỏ thú y gọi điện:

-Chú ơi! Hôm nay không phải 7 con mà tăng lên 10 con rồi. Lát chú ghé chỗ con đóng thêm tiền.

Chàng cảm thấy một phần tư tiền lương hưu của mình vừa bốc khói, tưởng như đang có trận hỏa hoạn trong cái ví. Tuy nhiên đó là chuyện hợp lý, không thể khác được.

Sang ngày thứ ba, cũng đúng 11 giờ trưa, thằng bé lại gọi điện:

-Chú ơi! Bữa nay 12 con. Chích 12 mũi. Và ba con mèo con bị chết vứt sọt rác rồi.

-Ba con nào?

-Thấy ông ta đem từ cái phòng nào phía sau ra. Hình như ở đó nhiều mèo lắm. Và thúi kinh khủng.

Don Quixote “tắt thở” ngay trên đường phố, nhưng vì chàng là hiệp sỹ huyền thoại nên chàng vẫn chưa chết.

Chàng có cuộc hẹn với một công ty giới thiệu việc làm. Chàng đang cần một người đàn bà dọn cứt mèo cho cái địa ngục trần gian ấy.

-Ông cần thuê giờ hay thuê ở luôn trong nhà?

-Mỗi ngày chỉ làm 2 tiếng. Từ 8 giờ đến 10 giờ sáng.

-Làm việc gì? Nấu ăn? Lau nhà hay giữ em?

-Công việc này khá đặc biệt, cần người chịu khó mới được.

-Việc gì vậy?

-Tôi xin lỗi. Đó là dọn… dọn… cứt mèo.

-Hơi khó đấy. Nhưng tôi sẽ cố gắng giúp ông. Nhưng… ông có bao nhiêu con mèo?

-Hai trăm con. Nhốt trong một căn phòng rộng. Chúng nó ị trên nền nhà nên cần dọn sạch mỗi ngày.

-Kinh quá.

-Nhưng chỉ làm chừng 2 tiếng là xong.

-Thế ông trả bao nhiêu?

-Bốn triệu mỗi tháng. Ngày làm 2 tiếng. Một tháng làm 30 ngày.

Chàng nói “30 ngày” là để cho dễ hiểu, không ngờ cô nhân viên tính kỹ quá. Cô ta nói:

-Vậy tức là tháng nào có 31 ngày thì ông phải trả thêm 140 ngàn nữa đấy nhé.

Trong khi chờ người giúp việc, mỗi ngày số mèo bệnh và chết mỗi tăng, và chiếc ví da trong túi chàng hiệp sỹ lừng danh của nhà văn Tây Ban Nha Cervantes bốc khói nghi ngút. Năm triệu đồng tiền lương hưu của chàng đã biến mất, kéo theo mớ bạc mấy đứa con góp lại cho hàng tháng.

Chàng không nhớ rõ mỗi ngày chàng phải trả bao nhiêu tiền cho thú y, bởi vì số mèo bệnh và chết lên xuống thất thường, nhưng cứ tính bình quân mỗi ngày chích thuốc cho 10 con, mỗi con 60.000đ, vị chi là 600.000đ, nhân lên 10 ngày đã trôi qua… thì chàng Don Quixote nhà ta đã phải “giải ngân” 6 triệu bạc rồi.

Tuy nhiên trong môi trường khủng khiếp của cái ngục A Tỳ đó, thì số mèo bệnh và chết mỗi ngày chỉ có tăng chứ không bao giờ giảm.

Hiệp sỹ Don Quixote là nhân vật của đầu thế kỷ 17, có nghĩa là cách đây hơn 400 năm, chàng vốn chỉ thích đọc truyện kiếm hiệp hoang đường, thích làm hiệp sỹ, còn chuyện tính toán thì rất dốt, nên không biết cách nào để vừa tiếp tục chữa bệnh cho mèo vừa có tiền thuê người dọn cứt mèo mỗi ngày.

Trong cơn giận dữ, chàng thúc con ngựa già ốm yếu của mình phi nước đại đến một bãi đất trống, ở đó có chiếc xe cạp đất rỉ sét của một công trường xây dựng dang dở. Nhưng chàng lại tưởng đó là một con quái vật tiền sử đang vươn cổ ra nghênh chiến. Chàng thúc ngựa phóng tới. Chiếc giáo dài xé gió lao đi như một tia chớp và mũi giáo sắc nhọn đâm trúng ngay cổ con quái vật. Chàng tưởng máu của nó sẽ phụt ra như cái vòi rồng chữa lửa, nhưng bỗng nhiên cánh tay chàng đau nhói, cây giáo dài gãy làm đôi, rớt xuống đống xà bần cạnh đó.

32. TỪ TRẠI MÈO

ĐẾN BỆNH VIỆN

(25/8/2019)

Thằng nhỏ thú y lại gọi điện:

-Chú ơi! Có một con mèo bị bệnh gan, bỏ ăn cả tháng nay. Con không chữa được đâu. Chú phải đưa nó đi bệnh viện gấp mới được.

Khi tôi đến nơi thì chú mèo đang nằm bất động trên một miếng giẻ lau nhà.

Tôi bế nó lên. Nó chỉ kêu “meo” một tiếng rồi nhắm mắt. Người chủ trại nói:

-Không chữa được đâu. Trước sau nó cũng chết.

-Nhưng không thể thấy chết mà không cứu.

-Phí tiền vô ích. Kể cả chuyện kêu thú y chích thuốc cũng phí tiền. Vì chuyện đó tui làm được mà. Tui nuôi mèo 10 năm nay, nhà có sẵn ống tiêm. Chỉ mua thuốc về là chích thôi, tại sao phải tốn 60 ngàn một mũi?

-Ý ông là…

-Đưa tiền cho tui. Tui tự mua thuốc về chích.

-Nhưng hôm qua có một con mèo bị áp-xe, nổi một cục to bằng trái chanh dưới da. Có phải do ông chích nó không?

Người đàn ông làm thinh. Tôi đưa tiền cho ông và nói:

-Đó, ông tự chích đi. Còn con mèo bị bệnh gan này thì tôi phải đưa đi bệnh viện ngay bây giờ.

Đó là một bệnh viện tư nhân rất lớn. Phòng ốc sang trọng, nhân viên y tế mặc đồng phục, bác sỹ mặc blouse trắng trông rất chuyên nghiệp.

Tôi nói:

-Nó bỏ ăn cả tháng nay, chỉ liếm láp chút sữa, chút cháo.

Cô nhân viên bảo:

-Chú đóng tạm ứng 2 triệu.

Tôi đóng tiền xong thì cô ta dẫn tôi vào phòng khám. Tay bác sỹ thú y chẳng nói chẳng rằng, ngoắc một cậu y tá đến. Hai người đè con mèo xuống.

-Các anh làm gì vậy?

-Lấy máu xét nghiệm.

-Trời ơi! Nó chỉ còn da bọc xương. Lấy máu sao nó chịu nổi.

-Nhưng tụi tôi phải xét nghiệm máu thì mới chữa được. Chú yên tâm đi. Lấy máu xong sẽ truyền sérum cho nó.

Lấy máu xong, con mèo hết cựa quậy. Họ liền truyên dịch cho nó. Tôi ngồi kế bên chờ nó tỉnh lại. Bụng nó vẫn còn thoi thóp nhưng hai mắt thì nhắm nghiền. Bác sỹ và nhân viên y tế bỏ sang phòng khác. Tôi vuốt ve nó hồi lâu thì nó mở mắt ra. Tôi gọi: “meo!”, nó đáp lại “meo” yếu ớt như một tiếng khóc.

Tôi ngồi một tiếng đồng hồ vẫn chưa truyền dịch xong, bèn gọi y tá.

-Này cháu, mèo yếu quá, chắc chú phải gởi nó lại. Có được không?

-Nội trú 350.000đ một ngày. Tiền xét nghiệm máu là 480.000đ. Tiền thuốc tính riêng.

-Thôi được, cho chú gởi qua đêm, sáng mai chú sẽ trở lại.

Nhưng sáng hôm sau tôi phải dẫn người đàn bà giúp việc lên trại mèo để hướng dẫn bà dọn cứt mèo và vệ sinh chuồng trại. Rất may là bà ta không than phiền gì. Bảo sao làm vậy. Tôi dặn:

-Mỗi ngày chị đến đây vào lúc 8 giờ sáng bắt đầu làm việc. Đúng 10 giờ tôi sẽ có mặt, và tôi muốn rằng lúc ấy sàn nhà sẽ sạch bóng, lũ mèo sẽ có thể đi lại thoải mái trong phòng. Chị nhắm có làm được không?

-Được.

Tôi nói cám ơn và đi ra phía trước gặp ông chủ. Thấy ông ta đang ngồi uống cà phê, tôi hỏi:

-Ông chích mèo rồi hả?

-Đang định chích thì anh tới. Uống xong ly cà phê là tôi chích liền.

Ông ta lôi trong ngăn kéo ra một lô ống tiêm, thảy lên mặt bàn. Xong lại lôi ra một lọ thuốc cũ mèm, đã tróc hết nhãn hiệu.

Tôi lấy các thứ lên xem và rùng mình.

Ống tiêm thì dính đầy bụi đất, có cái còn dính cứt mèo, đã khô queo. Chai thuốc thì chỉ còn một phần ba, lợn cợn những thứ quỷ quái gì đó không biết.

-Tôi tưởng ông đã mua thuốc mới và ống tiêm mới chứ.

-Mới mà! Mới xài có một lần.

Thợ sửa kệ cho mèo nằm

-Nhưng dính đầy bụi và cứt mèo như vầy, sao dùng được?

Ông ta chậm rãi đứng dậy, xách một con mèo đến và đặt nó lên bàn. Tôi nói:

-Không được! Thuốc và những ống tiêm này quá bẩn. Không dùng được.

Rồi tôi gom tất cả những thứ bẩn thỉu ấy, bỏ vào sọt rác.

Chủ nhà trừng mắt nhìn tôi.

-Ông nghĩ ông là ai?

-Tôi đã đưa tiền cho ông mua thuốc và ống tiêm. Sao ông không mua?

-Có sẵn thì xài. Khi nào hết thì mua.

Tôi nuốt giận, ngồi xuông ghế.

Ngay lúc ấy, một người đàn ông bước vô. Đó là người thợ tôi thuê đến làm mấy cái kệ cho mèo ngủ.

Tôi chỉ cái sân lát gạch trước nhà.

-Anh cứ làm đi. Làm xong thì gọi điện báo tôi biết.

Biết để trả tiền.

Chàng Don Quixote đã phóng lao thì phải theo lao.

Mười năm trước, khi nghỉ hưu, tôi nhận được 60 triệu, không biết đó là tiền quỷ quái gì, do phòng kế toán cộng trừ nhân chia nó ra như thế. Tôi gởi ngân hàng, bây giờ có việc thì cứ xài. Nếu bạn bè có ai thương mèo phụ với tôi một tay thì tốt, bằng không cũng “chơi” luôn. Già rồi, tiện tặn cho lắm cũng xong một đời.

Để giảm căng thẳng, tôi bảo người chủ trại mèo:

-Số tiền hôm qua tôi đưa cho anh, anh cứ giữ lấy để mua thức ăn cho mèo. Ngày mai cứ để thú y nó đến chích tiếp, vì nếu không, con này lây cho con kia, muôn đời không dứt.

Ông chủ im lặng. Người đàn bà giúp việc từ nhà sau bước lên.

-Nhà lau sạch rồi đó. Ông ra coi có được chưa.

Tôi coi. Thấy được. Tôi bảo bà ta sáng mai cứ thế mà làm, rồi vội vàng lấy xe chạy đến bệnh viện thăm con mèo đau gan.

Khi bước vào căn phòng hôm qua, nhìn quanh quất không thấy con mèo đâu, tôi hỏi, thì người ta dẫn tôi sang một phòng khác. Ở đó con mèo được nhốt trong một cái lồng màu xanh, có lót vải trắng. Nó đang ngồi. Tôi gọi meo meo nhưng nó không đáp lại.

-Bé có ăn được không vậy, cháu? Tôi hỏi cô y tá.

-Được chút ít. Nó có vẻ khá hơn hôm qua đó chú.

-Cố cứu nó nhé. Hôm nay bác sỹ có cho truyền dịch không?

-Hồi sáng truyền rồi. Ba giờ sẽ truyền lần nữa.

Thấy nó đã ngồi được, tôi rất yên tâm. Tôi thò tay vô cửa chuồng vuốt ve nó, nó nhìn tôi và meo lên một tiếng.

-Cố lên đi con. Ông ngoại sẽ gắng hết sức cứu con. Ráng ăn nhé. Ăn thì mới sống được. Ngoại thương con lắm.

Tôi ngồi chơi với nó một lát rồi về.

33. REST IN PEACE,

MÈO NHỎ CỦA NGOẠI

(26/8/2019)

Hôm sau, buổi sáng tôi lên trại mèo để kiểm tra tình trạng vệ sinh, buổi chiều tôi đến bệnh viện.

Khi tôi hỏi về tình trạng con mèo thì người nọ chỉ người kia, người kia hỏi người khác. Hình như người ta đã thay kíp trực mới. Cứ hỏi lung tung: Mèo tên gì? Nhập viện ngày nào? Bị bệnh gì?

Tôi nản quá, tự đi tìm lấy.

Nó vẫn ở trong cái lồng màu xanh, nhưng đang nằm thiêm thiếp. Tôi gọi “meo” nhưng nó không đáp. Tôi vuốt ve nó, thấy còn thoi thóp thở nhưng bốn chân đã lạnh ngắt. Nó không phản ứng, và không có vẻ gì là biết tôi đang ở bên cạnh.

Một cô y tá đến bên. Tôi hỏi:

-Bé có ăn được không?

-Dạ… dạ… Linh ơi! Hồi nãy có ai cho mèo này ăn không vậy?

-Mèo nào?

-Mèo ở trong cái lồng xanh này nè.

Tôi không hỏi nữa. Tôi nói:

-Cháu cho chú gặp bác sỹ.

Bác sỹ đến. Và câu nói của anh ta là:

-Tôi mới thay ca nên chưa xem hồ sơ bệnh án.

Tôi thở ra, ngước mặt nhìn trần nhà.

-Tôi gởi mèo nội trú ở đây, mỗi ngày tốn 350.000đ, nhưng hình như không ai ngó ngàng gì đến nó cả. Chiều hôm qua nó còn ngồi dậy được và còn nhận ra tôi. Bây giờ thì ông thấy đấy. Nó đang hấp hối.

Bác sỹ nói:

-Để tôi truyền sérum cho nó.

Tôi quay mặt vào vách, hai bàn tay xòe ra, áp vô tường, như kẻ đang chờ một loạt đạn hành quyết. Má tụi bay! Cái gì ở đây cũng sang trọng, cũng sạch sẽ, nhưng con mèo của tao đã kiệt sức mà chúng mày vẫn đè xuống rút máu xét nghiệm, để lấy 480.000đ, gấp 3 lần xét nghiệm cho người. Lấy máu hôm trước, mãi đến hôm sau tao mới hỏi kết quả, thế mà không có, đứa nọ chỉ đứa kia, rồi bảo tao chờ một tiếng đồng hồ, rồi chúng mày vẽ ra một cái kết quả gì đó, đưa cho tao. Tụi bay có biết là ở bệnh viện dành cho người, khi lấy máu xong chỉ cần chờ 30 phút là có kết quả không?

Các y tá lăng xăng với các dây nhợ, bình sérum, đèn sưởi ấm. Con mèo nhỏ của tôi thì nằm thoi thóp trong cái quầng sáng đỏ lòm của đèn hồng ngoại. Khi mọi thứ đã xong thì bọn họ biến mất. Tôi bước đến cạnh cái bàn inox, ngồi xuống.

-Meo, meo!

Tôi gọi mèo nhỏ. Cái đuôi lay động như một nhành lau héo rũ. Nó như cái xác của một đứa trẻ châu Phi, đen đủi, teo tóp, nằm thở dốc bên lề đường, chờ đàn kền kền bu đến.

Tôi vuốt ve, nhẹ nhàng, trìu mến, truyền hơi ấm vào trái tim yếu ớt của nó, gởi vào dòng máu đang khô kiệt của nó nhịp thổn thức của trái tim tôi. Bỗng nhiên nó kêu lên một tiếng: “meo” nhỏ nhoi, mỏng manh. Tôi cúi sát xuống, gọi meo, meo… nhưng nó không đáp lại tiếng nào nữa. Tôi luồn bàn tay của mình dưới cổ nó, đặt đầu nó vào trong lòng bàn tay nhưng chỉ cảm nhận được hơi nóng của đèn hồng ngoại.

Tôi cứ để như thế thật lâu với hy vọng nó biết rằng tôi đang ôm nó.

Lát sau, nó lai kêu meo. Rồi kêu tiếp một tiếng meo nữa. Tiếng “meo” nhỏ nhoi, như tiếng khóc tuyệt vọng, như lời trăng trối: Ngoại ơi! Con sắp chết rồi! Con sắp chết rồi! Con lạnh quá ngoại ơi!

Tôi áp má mình lên má nó. Nó lại meo lên một tiếng. Nước mắt tôi chảy qua cổ nó. Meo, meo! Đừng chết! Đừng chết, con bé bỏng của ngoại. Hãy sống! Ngoại sẽ đưa con ra khỏi cái trại mèo địa ngục ấy. Ngoại sẽ đem con về nhà nuôi. Con sẽ sống chung với các anh chị của con.

Nhưng nó rùng mình một cái rồi bất động.

Con ơi! Con từ đâu đến? Người ta đã nhặt con ở đâu, ngoại không hề biết. Ngoại mới gặp con có mấy ngày nay và không thể ngờ rằng chiều nay sẽ phải tiễn biệt con, sẽ phải ngồi bên con, chứng kiến những giây phút cuối cùng của một sinh linh bé nhỏ, côi cút, đơn độc và lạnh lẽo.

Con ra đi một mình. Không có mẹ bên cạnh. Chỉ có ông ngoại, một ông già mà con mới gặp gỡ trên cõi đời này trong giây lát, người duy nhất có mặt bên con, để con có thể gởi lại những tiếng meo meo cuối cùng như một lời chào vĩnh biệt.

Meo, meo… Con bé bỏng. Hãy yên nghỉ trong tình thương của ngoại. Ngoại sẽ đưa con về nằm trong nghĩa trang mèo trước nhà ngoại, nằm chung với các anh chị con đã chết từ lâu lắm. “Nơi đây yên nghỉ những con mèo hoang của tôi. Những đứa trẻ bất hạnh đã bị xã hội loài người vứt bỏ”.

Con cũng là một đứa trẻ bị vứt bỏ như thế. Và trên thế gian này, xưa nay đã có hàng triệu, hàng triệu mèo con bị vứt bỏ như con, vùi thây trong rác rưởi, rã mục trong cống rãnh…

Đêm tràn ngập thành phố. Tôi cuộn con mèo trong cái bao ny-lông dày, bỏ trong lồng rồi máng lên chiếc xe máy.

Phố xá đông người. Một ông già và một con mèo đã chết, đi lẩn vào cái đám đông náo nhiệt ấy.

34. TÀI TRỢ

(26/8/2019)

Giữa lúc đang rất đau buồn về cái chết của “Mèo Nhỏ” thì tôi nhận được e-mail của một chị bạn ở Bruxelles.

“Anh thân mến,

Mấy ngày nay đọc “Gặp Gỡ Và Chia Lìa” mà em cũng khóc theo hoài, vì em y như cảnh của anh đang sống, thương tụi nhỏ sống lang thang, chỗ nào thấy coi bộ yên thì tới cho ăn, còn chỗ nào nguy hiểm thì em  mang mèo về nhà.”

“Gặp Gỡ Và Chia Lìa” là tác phẩm tôi viết về những con mèo bị vứt ngoài đường, tôi đem về nuôi, đến khi chúng lớn khôn thì bị bọn trộm mèo bắt ăn thịt, bị chó cắn, bị xe cán… lần đó tôi đau khổ đến nỗi không thể không “giải tỏa” bằng cách viết một cuốn sách được.

Tác phẩm được đưa lên mạng và Ma-đam Bruxelles đã đọc, rồi viết thư cho tôi. Tôi chưa hề gặp Ma-đam này ngoài đời, chỉ biết nhau trên mạng qua những bài báo và nhất là qua các tác phẩm văn học của tôi.

Tôi gọi điện thoại cho chị, kể chị nghe về cái “trại mèo địa ngục” mà tôi đã mô tả trong mấy chương sách vừa qua. Chị bảo tôi quay phim trại mèo ấy và đưa lên mạng, biết đâu sẽ có người tài trợ.

Tôi đã thực hiện điều đó.

Cái video clip ấy được mấy chục người “like” và một số “comments” tỏ ý thương cảm lũ mèo khốn khổ. Vài người hứa sẽ “gởi cho lũ nhỏ ít tiền mua thức ăn” nhưng khi tôi gởi số tài khoản thì “lặn” mất tiêu.

Duy nhất chỉ có một người là chị TT bảo tôi cho số tài khoản của ông chủ trại mèo để chị gởi tặng một triệu VN đồng.

Ngày nọ, có một người từng kết bạn với tôi trên facebook gởi thư cho tôi. Chị là Việt kiều đang sinh sống tại Sydney (tạm gọi là Ma-đam Sydney). Chúng tôi cũng chưa từng gặp mặt và chỉ mới biết nhau qua internet.

Ma-đam Sydney gọi điện thoại cho tôi.

-Anh đưa một cái video như thế lên mạng sẽ không có hiệu quả gì đâu. Bây giờ em đề nghị thế này: Anh gởi cho em một bản, cho Ma-đam Bruxelles một bản. Em sẽ thuyết minh bằng tiếng Anh, Ma-đam Bruxelles sẽ thuyết minh bằng tiếng Pháp. Sau đó vừa đưa lên mạng vừa gởi riêng cho bạn bè. Em hy vọng sẽ có người phụ với tụi mình một tay.

Đó là một sáng kiến. Ba anh em chúng tôi bắt tay thực hiện liền.

Một tuần sau khi 3 cái video clip Anh-Pháp-Việt được công bố, Ma-đam Sydney hỏi tôi:

-Tình hình tài trợ ở Việt Nam thế nào?

-Chẳng có ai cho một xu. Kể cả những người đã hứa. Thế còn bên Úc?

-Cũng vậy. Còn không có được một cái comment nữa là!

Tôi bèn gọi sang Bỉ. Ma-đam Bruxelles nói:

-Em không chơi facebook nên gởi video trực tiếp cho các bạn em. Vài người hứa. Có lẽ sẽ được vài trăm Euros. Nhưng bây giờ thì chưa ai gởi cả.

Mười ngày sau tôi lại gọi cho ma-đam Bruxelles:

-Sao rồi?

-Em mới nhận được 60 Euros. Tuần sau hy vọng sẽ có thêm 100 Euros nữa.

Tôi thông báo tin vui ấy cho Ma-đam Sydney và biết rằng ở Úc cũng chẳng có ai quan tâm đến cái video clip của chúng tôi cả.

Việt Nam cũng thế. Duy nhất chỉ có một triệu đồng của TT. Cái video clip của chúng tôi đã qua một tháng và bị dòng thời gian (timeline) của facebook cuốn đi mất tích.

Tôi bèn vận dụng khả năng suy luận “siêu việt” của mình như vầy: “Xin tài trợ cũng giống như bán hàng online. Nếu mình bán được 1 cái TV thì mình phải quảng cáo là đã bán được 10 cái. Thủ thuật đó gọi là “kích cầu” khuyến mãi. Vậy thì tại sao mình không khoe là đã nhận được tài trợ 1.000 hay 2.000 đô la để kích thích sự tài trợ của người khác?”

Nghĩ là làm. Tôi soạn một cái thông báo như thế và đưa lên mạng. Lập tức ma-đam Sydney gọi điện la lối:

-Trời ơi! Sao anh đăng một cái thông báo như vậy? Ở Úc có ai cho đồng xu nào đâu. Ở Việt Nam thì cả tháng nay vẫn chỉ có 1 triệu. Ở Bruxelles thì 160 Euros nhưng là do bạn thân gởi cho. Sao anh nói mình đã nhận được 3.000 đô-la? Anh có biết rằng khi công bố như vậy có nghĩa là anh đã bỏ túi ba ngàn đô-la, và anh phải chịu trách nhiệm về số tiền ấy với trại mèo. Nếu anh không thuyết minh rõ ràng về chi tiêu, anh sẽ phải đền. Anh đã bỏ tiền túi ra 15 triệu cho mấy con mèo, bây giờ lại muốn móc thêm hầu bao gần 70 triệu để đền cho người ta hả?

Tôi tối tăm mặt mũi.

-Thôi, thôi… em đừng la anh nữa! Anh ngu. Anh có cái đầu bã đậu. Anh không phải nhà văn khỉ gió gì cả. Anh chỉ là cái thằng già Don Quixote dở hơi nổi tiếng thế giới. Anh xin lỗi. anh xin lỗi…

Ma-đam Sydney tức quá, bèn đem chuyện này “méc” với Ma-đam Bruxelles. Chị này cười rũ, gọi điện cho tôi:

-Hết làm phách chưa, ông anh nhà văn?

-Dạ hết. Dạ ngu. Dạ chừa. Dạ tởn tới già!

-Tởn tới già sao? Bộ bây giờ anh còn trẻ lắm hả?

-Dạ không còn trẻ. Dạ, già chát rồi. Già mà còn ngu. Dạ… người ta nói ngu như bò…

-Thôi, không ghẹo anh nừa. Bây giờ em báo anh chuyện này. Em đang giữ 160 Euros và có lẽ chỉ dừng lại ở con số ấy thôi. Coi bộ người ta đã quên chuyện mấy con mèo rồi. Nhưng mà em không gởi tiền cho anh được.

-Sao em không gởi như bên Mỹ? Cứ ra chợ mà gởi. 100 đô tiền phí chỉ có 1 đô à.

-Bên châu Âu không giống bên Mỹ. Không có dịch vụ chuyển tiền tư nhân. Phải ra ngân hàng. Họ chém 10 phần trăm đấy. Có khi hơn. Em đang tính cách nào tiết kiệm.

Trong khi chờ đợi chị chàng “tính cách nào tiết kiệm” thì mèo vẫn tiếp tục bệnh, tiếp tục chết. Vệ sinh chuồng trại vẫn tiếp tục phải trả 4 triệu đồng mỗi tháng.

Ma-đam Sydney hiểu rõ tình cảnh của tôi hơn ai hết. Cô nói:

-Vậy thì ba anh em mình phải lo trả tiền thuê người làm vệ sinh hàng tháng cho trại mèo. Lại phải móc tiền túi ra thôi. Và hãy quên cái video clip mắc dịch đó đi. Hãy quên chuyện tài trợ đi.

Thôi, cũng xong được một mối. Vừa may có hai người bạn thân gọi điện. Một người là nữ thi sỹ tài hoa gởi cho 3 triệu, người kia là giảng viên dạy toán tại một trường đại học, nhưng lại là độc giả đọc tác phẩm của tôi nhiều nhất và kỹ nhất. Anh gởi tặng một triệu. Họ thân với tôi không phải vì những con mèo mà là vì chuyện văn chương chữ nghĩa.

Tôi nghĩ: Giải quyết như vậy cũng tạm ổn.

Nhưng sự việc không đơn giản như vậy. Vì 3.000 đô-la mà tôi lỡ khoe khoang trên mạng sẽ là món nợ mà tôi phải trả bằng những nguyền rủa, mạ lỵ tàn tệ nhất.

Chàng Don Quixote huyền thoại không biết chống đỡ cách nào, đành phải đi tìm cái cối xay gió để đánh nhau với nó.

35.ĐÁNH NHAU

VỚI CỐI XAY GIÓ

(29/8/2019)

Như thường lệ, 10 giờ sáng tôi đến kiểm tra chuồng trại. Người đàn bà đã quen việc. Mọi thứ ngăn nắp, sạch sẽ. Lũ mèo thong thả đi lại trong phòng, thỉnh thoảng đùa giỡn nhau như trẻ con. Tôi hạnh phúc khi thấy mình đã biến được cái địa ngục của chúng thành một mái ấm, một môi trường sống trong lành.

Khi tôi trả lương cho bà thì ông chủ trại bảo bà và tôi ngồi lại. Tôi hỏi:

-Anh thấy chị Tư dọn vệ sinh có tốt không?

-Cũng được. Nhưng có những thứ cần hơn chuyện dọn vệ sinh rất nhiều.

-Ví dụ?

-Tiền nhà. Tiền ăn cho lũ mèo. Tiền nhà cộng điện nước là 10 triệu một tháng. Tiền ăn 30 triệu. Còn dọn vệ sinh là chuyện nhỏ, tôi làm cũng được.

Ông dọn vệ sinh? Có nghĩa là ông muốn phục hồi cái địa ngục cũ? Ông từng nói với tôi là ông tự chích thuốc cho mèo được, nhưng ông có chích đâu. Tôi đã có kinh nghiệm xương máu về điều đó!

Những lời này đang nhảy tưng tưng trong đầu tôi như những con khỉ muốn sổ lồng bung ra ngoài, nhưng vì lũ mèo, tôi nuốt chúng xuống, nhẫn nhịn. Tôi giữ giọng bình thản:

-Ông đã duy trì trại mèo này mười năm. Mười năm đó không có tôi. Ông vẫn tồn tại. Như thế có nghĩa là ông có nhiều mạnh thường quân giúp đỡ. Tôi không phải là đại gia hay doanh nhân. Tôi chỉ là một cán bộ hưu trí, lương tháng 5 triệu. Tôi đến đây vì thương những con mèo. Khả năng tôi chỉ có thể giúp ông một người dọn vệ sinh chuồng trại. Nhưng một mình tôi cũng không gánh nổi mỗi tháng 4 triệu tiền lương đâu. Phải nhờ vài người bạn nữa giúp sức, thay phiên nhau mà trả lương cho chị Tư này.

Chủ trại cười khẩy:

-Vậy 3.000 đô tiền tài trợ ông để làm gì?

-Ba ngàn đô ở đâu ra vậy?

-Chính ông công bố trên mạng.

Gieo gió gặt bão rồi đó lão Don Quixote ạ. Tôi nói:

-Đó chỉ là số tiền người ta hứa. Nhưng họ đã gởi đồng nào đâu. Họ chỉ là những cái tên ảo trên mạng internet. Tất cả những chi tiêu cho trại mèo từ trước đến giờ đều là tiền túi của tôi.  

-Vậy cái bà gì ở bên Bỉ, cái bà gì ở bên Úc, thì sao?

-Ông có muốn nói chuyện trực tiếp với họ bây giờ không? Bây giờ ở Việt Nam là 12 giờ trưa, ở bên Sydney là 4 giờ chiều. Nói chuyện liền bây giờ không? Có muốn biết họ đã gởi cho tôi bao nhiêu tiền không?

-Không cần chuyện trò gì hết. Tôi chỉ biết là ông đã nhận được 70 triệu đồng nhờ trại mèo của tôi. Và ông phải trả cho tôi. Vậy thôi.

Tôi bật cười ha hả:

-Tuyệt quá! Cứ cho là người ta đã gởi cho tôi 3.000 đô-la đi, nhưng đó là số tiền người ta gởi vào tài khoản của tôi, gởi cho tên tôi. Họ không hề biết ông là ai cả. Có gì buộc tôi phải đưa nó cho ông?

-Đó là tiền dành cho những con mèo!

-Cứ cho là vậy đi. Nhưng tôi được ủy quyền sử dụng số tiền ấy, chớ không phải ông. Tôi có quyền chi tiêu theo ý mình. Chớ không phải ông. Nếu ông nói đó là tiền của ông, ông thử đến ngân hàng lãnh xem. Tôi chở ông đi ngay bây giờ. Trước hết ông sẽ thấy rằng tài khoản của tôi chắng có đồng bạc nào từ nước ngoài gởi về cả. Thứ hai, nếu có thì cũng chẳng có ai điên mà cho ông lãnh một xu. Ông có dám đi không?

-Tôi không đi, nhưng tôi sẽ đưa vụ này lên mạng. Ông chuẩn bị dẹp cái nghề viết văn của ông đi là vừa!

-Sáng kiến hay! Nhưng đó là chuyện sau. Chuyện trước mắt là chị Tư giúp việc này nè. Ông phải trả lời ngay câu hỏi này: Ông có muốn chị tiếp tục làm việc không? Yes or No? Nếu ông nói không, thì ngay lập tức chấm dứt cái rụp liền. Ngày mai cứt mèo sẽ đùn lên như cũ. Và ông sẽ phải tự dọn lấy. Thế nào? Yes or No?

Lão chủ tỏ vẻ bối rối. Đốt thuốc lá. Trầm ngâm. Câm như hến. Rồi từ cái hàm răng nám khói thuốc lá của lão, một câu nói rè rè, đục đục, cũ xì và có mùi dưa cải chua phun ra:

-Thôi, chúng ta hãy từ từ nói chuyện.

*

Khi tôi và chị Tư giúp việc ra về, chị nói:

-Trưa quá rồi, anh cho tui quá giang, tui đi xe buýt chờ đợi bất tiện lắm.

Chị ngồi sau xe tôi, thả thêm một câu êm ái:

-Tui có chuyện này muốn thưa với anh nhưng ngại quá.

-Ngại gì. Cứ nói đi.

-Anh à! Ba ngàn đô, đổi ra tiền Việt nhiều lắm. Anh có thể… có thể… mua cho tôi một chiếc xe đạp điện không? Có mười lăm triệu hà. Lâu nay tui đi xe buýt cực quá.

Bỏ mẹ! Ở đâu ra cái món nợ tiền khiên oan trái này nữa, hả trời! Tôi thấy chán chường và hoàn toàn mệt mỏi.

Tôi dừng xe lại.

Bỗng nhiên trước mặt tôi trời đất tối sầm. Cảnh vật chung quanh biến mất. Tôi thấy một cái lỗ đen xoay tít, thô bạo hút tôi vào trong đó, rồi ném tôi vào một thế giới xa lạ. Tôi thấy mình đang đứng giữa ngôi làng nhỏ với những luống hoa tu-líp. Xa xa là mấy ngọn đồi thấp, trên đồi có cái cối xay gió khổng lồ.

Bỗng nghe tiếng ngựa hí vang, tôi giật mình nhìn xuống, thấy chiếc xe gắn máy hiệu Honda của mình đã biến thành con ngựa từ lúc nào. Còn tôi thì hiện nguyên hình là lão già Don Quixote huyền thoại, với bộ áo giáp sắt và chiếc giáo dài.

Chàng hiệp sỹ nghe có tiếng kêu gào của đàn mèo phát ra từ cái cối xay gió đang quay tít thò lò trên đồi, bèn phi nước đại đến, bất chấp gai góc.

Bỗng nhiên có hai con ngựa sắt từ đâu hiện ra, đuổi theo chàng rất gấp. Tiếng hí của chúng gầm  rú, mũi chúng phun khói đen mù mịt. Chúng đuổi kịp chàng. Rồi vượt qua chàng, ép chàng vô lề rất quyết liệt, buộc chàng phải dừng lại.

Chàng vừa vung ngọn giáo lên thì đã bị hất xuống đường.

Khi lồm cồm ngồi dậy, chàng hỏi:

-Đây là đâu?

Một trong hai người khổng lồ mặc quần áo màu vàng nói:

-Là đường cao tốc.

-Các ông định làm gì tôi?

-Ông đã chạy xe gắn máy vào đường cao tốc. Đường này chỉ dành cho ô-tô. Và ông còn chạy ngược chiều nữa.

-Nhưng các ông là ai?

-Là cảnh sát giao thông. Ông vui lòng cho chúng tôi xem giấy tờ xe và bằng lái.

Don Quixote móc ví. Chiếc xe cà tàng của ông đã mất giấy tờ từ lâu. Chỉ còn bằng lái. Người cảnh sát giao thông tịch thu bằng lái, lập biên bản, bắt chàng ký, rồi nói:

-Lỗi của ông rất nặng. Chúng tôi giam xe và tịch thu bằng lái. Đúng một tháng sau, mời ông tới địa chỉ ghi trong biên bản, đóng tiền phạt, trình giấy chủ quyền để nhận xe và bằng lái về.

Chàng hiệp sỹ của chúng ta chưa hết bàng hoàng, lủi thủi đi bộ một mình giữa trưa nắng. Đôi giày của chàng đã mòn vẹt, mũi giày rách te tua, làm cho các ngón chân của chàng đau nhói. Chàng nổi giận, nhưng chiếc cối xay gió đã biến đâu mất rồi. Hai người cảnh sát giao thông cũng đã bỏ đi, chỉ còn lại một xa lộ nắng cháy, dài hun hút.

Vừa giận, vừa buồn. Chàng bèn ứng khẩu thành thơ như vầy:

Trước kia ta đi chân đất

Đời cho ta mang đôi giày

Mặc áo lính, ta thành chiến sĩ

Lưỡi kiếm cùn ta nắm trong tay

Một ngày nọ ta rời phố thị

Lưng đeo con trủy thủ lên đường

Ngoảnh lại em, nói lời nghĩa khí:

“Hẹn ngày giải phóng quê hương.”

Nhưng ta giống chàng Don Quixote

Muốn cứu đời mà như trẻ thơ

Đời xỏ lá chê ta dại dột

Xua ta đi mỏi kiếp giang hồ

Lúc giận đánh nhau với cối xay gió

Bị trúng đòn đau sưng mặt mày

Ta rớt xuống ngang loài sâu bọ

Tuột mất đôi giày lính trận xưa nay

Bạn thương tình, cho ta đôi xăng-đan

Ta lê bước lâu ngày đã rách

Giờ xin bạn mấy đồng bạc cắc

Đi vá giày. hề, ta đi vá giày

Giày rách vá thành giày lành

Mang vào chân hề, ta đi nữa

Chân thấp chân cao, tay cầm chân giữa

Ta vừa đi vừa đái vào đời

36.TẠM BIỆT TRẠI MÈO

(2/9/2019)

Lão Don Quixote cảm thấy kiệt sức trên đường cao tốc. Đôi dép mòn vẹc khiến bàn chân lão bật máu. Lão muốn ngồi nghỉ nhưng xa lộ hun hút và nắng cháy, không một bóng cây. Lão đang lạc trong một sa mạc hắc ín đen, bốc khói. Nếu tiếp tục đi, có lẽ lão sẽ gục xuống như một con ngựa già, rồi bị cái nắng thiêu cháy da thịt, chỉ trong phút chốc lão chỉ còn là bộ xương trắng nhởn vô danh và vô dụng.

Rất may, lão nhìn thấy bên đường có một triền dốc mọc đầy cỏ gai, dẫn đến lối mòn đi vào trong xóm.

Lão xoay lưng lại, từng chút, từng chút tụt xuống cái triền dốc ấy.

Lão đi cà nhắc vào trong xóm, rồi bước vô một cái chòi tranh lụp xụp bên đường.

Chủ quán là một bà già.

-Ông dùng chi?

-Cho tôi một trái dừa.

Khi bà già đem dừa đến, lão hỏi:

-Đây là đâu?

-Bến Lức.

-Bến Lức nào?

-Bến Lức Long An. Bộ ông ở xa mới tới?

-Không… không. Tui bị chóng mặt. Tui ở Sài Gòn. Tui đi lạc.

Chủ quán lùi một bước, ngắm nghía người khách lạ. Áo quần nhăn nhúm, bẩn thỉu. Tóc tai bù xù. Đặc biệt, đôi dép rách te tua, lòi mấy ngón chân móng dài tua tủa, vừa đen vừa xù xì gớm ghiếc.

Bàn chân ấy làm bà ta phát hoảng.

-Này ông! Tui sắp đi đám ma. Ông trả tiền trái dừa rồi đi về cho tôi đóng cửa.

Lão biết mình bị đuổi một cách phũ phàng, không cách gì nấn ná thêm được, bèn móc ví ra. Nhưng quỷ thần ơi! Sao cái ví biến đâu mất rồi! Mình nhớ lúc nãy có móc ra để đưa bằng lái xe cho cảnh sát giao thông mà. Chẳng lẽ nó rớt trên đường cao tốc?

-Sao rồi, cha nội!? Chủ quán chống nạnh, hỏi. Tính quỵt hả?

-Không.. không.. Tui là người đàng hoàng. Tui… là nhà…

-Nhà gì? Nhà quê hả? Khỏi khoe. Nhìn “ngoại hình” là biết rồi. Bộ hồi sáng giờ chưa có ai bố thí cho đồng nào hả? Thôi! Cho miễn phí trái dừa. Cút! Cút đi ngay!

Lão thấy bị xúc phạm dễ sợ.

-Tôi bỏ quên cái ví. Tôi sẽ gọi người nhà tới. Bà cho tôi ba mươi phút, tôi trả tiền đàng hoàng.

-Thôi khỏi! Thí cô hồn! Mời ra!

Bà dứ dứ cán chổi, sấn tới một bước. Nhưng lão già không nhúc nhích. Lão móc cái điện thoại cùi bắp ra. Bấm số. Nhưng bấm chưa xong thì cái ghế đẩu bằng nhựa đã bị một cú đạp, khiến nó ngã chỏng gọng. Lão già cũng lăn quay ra đất, chiếc điện thoại văng dưới gầm bàn.

Ngay lúc ấy có một người đàn ông trung niên chở theo một bà sồn sồn trên chiêc SH bóng lộn, thắng gấp trước cửa quán.

Người đàn ông chạy đến đỡ lão già dậy.

-Trời ơi! Anh! Sao đến nỗi này!?

Ông ta xốc lão lên, đặt nằm trên cái võng gần đó.

-Bà làm gì vậy? Người đàn ông to tiếng. Sao bà dám đánh người?

-Nó ăn quỵt.

-Ăn quỵt? Bà biết ổng là đại gia không? Ổng mua cả cái tỉnh Long An này còn được, đừng nói là cái quán lá của bà. Đến xin lỗi người ta đi, không thì có chuyện với tôi đó.

-Chuyện gì? Chủ quán ngảnh mặt, vừa ngạc nhiên vừa khiêu khích. Bộ tui sợ ông hả? Đồ điên!

Người đàn ông không thèm cãi tay đôi với chủ quán. Ông ta bắc ghế ngồi kế bên võng của Lão Don Quixote, bóp nhẹ hai vai.

-Xin đại nhân tha lỗi, chúng tôi đến trễ. Chúng tôi nghe nói đại nhân đi lộn vô đường cao tốc thế nào cũng bị phạt nên hỏi cảnh sát giao thông, họ nói đại nhân đi về hướng này.

Don Quixote thở dài. Lúc này lão không còn biết đâu là mộng đâu là thực. Lão nghĩ có lẽ mình đang ở Hà Lan hay Tây Ban Nha cũng nên. Nhưng vì lão thấy người đàn ông này quen quen nên hỏi:

-Các hạ là ai vậy?

-Tôi là chủ trại mèo, đại nhân quên rồi sao?

-Thế còn người phụ nữ kia?

-Đó là cô Hồng Ánh, em gái của ma-đam Bruxelles vừa từ bên Bỉ về.

Người đàn bà tên Hồng Ánh cũng xách ghế ngồi sát bên võng.

-Chào anh, em đem tiền về cho trại mèo nhưng chị Bruxelles dặn phải có sự đồng ý của anh thì em mới dám đưa. Je vous ai cherché toute la journée mệt gần chết, cuối cùng người ta chỉ em đến trại mèo. Sao? Ý anh thế nào?

Don Quixote gượng ngồi dậy, thều thào:

-Trả tiền trái dừa giùm tui rồi về nhà nói chuyện.

Chủ trại mèo lật đật móc ví, dúi tiền vào tay bà chủ quán rôi bấm điện thoại gọi một chiếc taxi.

Hồng Ánh đỡ lão Don Quixote lên taxi trong khi chủ trại mèo chạy xe máy theo sau.

Trên taxi Don Quixote hỏi Hồng Ánh:

-Bên Bỉ quyên góp được bao nhiêu?

-Dạ cũng chỉ có 620 Euros nhưng lâu nay không gởi vì ngân hàng nó chặt 10 phần trăm, nên nay sẵn dịp về thăm nhà, em đem về luôn.

-Số tiền ấy trả được 3 tháng lương cho người làm vệ sinh chuồng trại. Được lúc nào hay lúc đó.

Một phút im lặng. Rồi Don Quixote hỏi:

-Hồng Ánh nè! Em có thấy lúc nãy chủ trại mèo rất lễ phép với anh không?

-Dạ, thấy. Ông ta còn gọi anh là “đại nhân”.

-Theo em là vì sao?

-Chắc hắn tưởng em đem về 3.000 đô la Mỹ.

Don Quixote cười hô hố:

-Chính xác!

Hồng Ánh móc 620 Euros đưa cho Don Quixote nhưng lão ngăn lại.

-Để lát nữa đưa cho chủ trại mèo. Và dặn ông ta dùng tiền ấy để trả lương cho người làm vệ sinh chuồng trại. Nhiệm vụ của anh ở trại mèo đã xong. Anh không muốn dính dáng tới nữa.

37.ĐỨA TRẺ

DƯỚI GẦM XE

(9/9/2019)

Một cái mặt ngây thơ, hai mắt tròn. Chú mèo con chừng một tháng tuổi đang nằm phục dưới gầm xe, nhìn tôi không chớp.

Tôi ngồi rất gần nó nhưng nó không bỏ chạy. Nó tin cậy tôi. Nó đang chờ đợi. Một con cá nục hấp. Và chúng tôi quen nhau.

Tôi không biết nó từ đâu tới. Và chắc là nó cũng không biết tôi là ai. Nó chọn cái gầm xe vì đó là nơi khá an toàn, che mưa, che nắng, nhưng kể từ giây phút ấy, gầm xe trở thành điểm hẹn.

Đó là chiếc Innova bảy chỗ của người hàng xóm. Nó thường nằm, ẩn mình sau bánh xe, chỉ ló cái mặt. Khi tôi đến ngồi xuống cạnh bánh xe thì nó bước ra. Tôi đặt chén cá giữa hai bàn chân. Nó ăn xong thì rúc vào ống quần tôi đùa giỡn. Hai ông cháu chơi với nhau trong im lặng. Một thế giới khép kín, riêng tư. Một hạnh phúc thầm, một mối tình nhỏ nhoi, mong manh, tự nhiên mọc lên như đóa hoa dại tình cờ trỗ bông ven bờ tử sinh trần thế.

Nhưng tôi phải giấu những con mèo nhà tôi vì nếu biết, chúng sẽ đuổi đi để bảo vệ lãnh thổ của chúng.

Những lúc lũ mèo nhà đi vắng, tôi thường bế nó đến ngồi ghế đá. Hai ông cháu đùa giỡn với nhau hồi lâu. Rồi tôi thả cho nó đi. Không biết đi về nơi nào.

Chừng nửa tháng sau, có người hàng xóm đi ngang qua, hỏi xin.

-Cháu nuôi mèo để làm gì?

-Nhà cháu nhiều chuột lắm.

Tôi nghĩ nó cũng cần một gia đình. Và tôi trao nó cho anh ta, trạc bằng con trai út tôi, có vợ con, theo đạo Phật.

Anh ta đem mèo về và xích nó lại.

Nhà anh ta cách nhà tôi chừng 300 mét nhưng tôi không ghé thăm vì muốn cho nó quen với nhà mới, chủ mới.

Nửa tháng sau, nó được thả ra và chỉ luẩn quẩn quanh nhà.

Ngày 26/3/2019 tôi bị tai nạn giao thông gãy chân, phải băng bột. Buổi chiều tôi ngồi trước nhà hóng mát.

Anh ta đi ngang qua, tôi hỏi:

-Mèo sao rồi?

-Nó đã lớn hơn, dù cháu chỉ cho ăn ngày một bữa.

-Tại sao?

-Để nó đói nó mới bắt chuột. Cho nó ăn no, nó lười.

-Nó không lười đâu. Tập tính của loài mèo là bắt chuột. Mèo chú ăn đầy đủ mà chúng vẫn bắt chuột rất giỏi, chúng còn bắt cả rắn và chim nữa.

Anh hàng xóm vâng vâng dạ dạ, nhưng tôi biết anh ta vẫn cứ cho ăn một bữa vì mỗi khi chống nạng đi ngang qua nhà, trộm nhìn, tôi thấy nó ốm nhom và chậm chạp. Đôi lần nó cũng nhìn thấy tôi nhưng có lẽ vì cái chân băng bột và chiếc nạng gỗ nên nó không nhận ra, và nó sợ.

Tôi nghĩ, khi nào mình lành chân, sẽ đến thăm nó.

*

Đó là chuyện của 5 tháng trước. Một khoảnh khắc thật ngắn ngủi của đời tôi và đời một con mèo hoang bé nhỏ, nhưng cũng đủ để làm nên một mối tình bi thương đầy nước mắt.

Tháng 7 âm lịch hàng năm được người đời gọi bằng nhiều thứ tên: Mùa Vu lan báo hiếu, tháng xá tội vong nhân, tháng cô hồn… nhưng với tôi, tháng Bảy này cũng như những tháng Bảy trước… lại là tháng chia ly với những con mèo.

Bốn năm trước, cũng trong mùa Vu Lan. Tôi mất ba con mèo hoang: Mì, không biết ở đâu, cứ tới bữa là xuất hiện đầu tường chờ tôi cho ăn. Tam Thể chừng hai tháng tuổi, ở trong đống gỗ. Mè (em gái của Vừng) ở trong nhà kho hàng xóm.

Trong vòng tuần lễ đầu của tháng cô hồn, chúng lần lượt ra đi.

Bọn trộm mèo chó đã mở  trận càn quét.

Mì biến mất khỏi bờ tường. Tam thể nằm chết trên vĩa hè trong cơn mưa phùn.

Mè và Vừng bỏ chạy tán loạn. Nhiều ngày không về.

Tôi đi tìm chúng khắp nơi: góc phố, đầu chợ, bờ sông, bãi rác. Không có gì ngoài những tiếng meo meo tuyệt vọng. Tôi đặt cá ở những nơi chúng thường lui tới. Qua một đêm, cá vẫn còn nguyên. Đến ngày thứ ba tôi tìm được Vừng trong một bãi đất trống người ta đúc ống cống (tôi đã dành cả một chương để thuật lại tình huống này ở đầu sách). Mè, em gái của Vừng thì biệt tích, coi như đã chết.

Đó là mùa Vu Lan kinh hoàng nhất đời tôi. Đầy nước mắt. Bỏ ăn bỏ ngủ. Chỉ ngồi im nghĩ về chúng sinh, về sự sống và sự chết, sự chia lìa. Chỉ đứng nhìn những điểm hẹn trống trơn. Và khóc.

Sáng ngày 9/8/2019, như thường lệ tôi đến trước nhà anh hàng xóm để cho chú mèo con ăn. Tôi định sẽ gọi meo meo và quay phim cảnh bé chạy đến đón tôi. Tôi sẽ bế bé, đặt lên ghế đá, lấy



thức ăn ra, mớm cho bé từng miếng cá nhỏ bằng lóng tay, vừa nhìn nó ăn vừa vuốt ve nó.

Nhưng nó đã không xuất hiện. Tôi gọi:

-Meo, meo…

Cô chủ nhà nói:

-Nó chết rồi chú ơi!

Tôi lặng người. Chậm chạp bước đến ghế đá dưới bóng cây, ngồi xuống. Cô gái lấy xe đi làm. Tôi cầm gói thức ăn trên tay như kẻ vô hồn.

Một mình với sự im lặng.

Lẽ ra trước mặt tôi phải là con mèo con năm tháng tuổi, đang ăn cá, đang nhai ngấu nghiến. Rồi leo lên người tôi, nằm trên đùi cho tôi vuốt ve và rên gừ gừ, hai mắt nhắm lại. Nhưng chỉ là một bàn đá trống. Một cái vĩa hè trống, những chậu kiểng im lặng trong cái se lạnh của buổi sáng sớm.

Con ơi! Sao con không về với ngoại? Mới chiều hôm qua ngoại đi phố về thấy con đang chơi đùa với mấy cô bé hàng xóm. Ngoại dừng xe lại, bế con trước ngực. Chẳng lẽ bây giờ con đã biến mất vĩnh viễn khỏi thế gian này sao?

 Tôi còn chưa kịp đặt tên cho nó, chưa chụp cho nó một tấm hình.

Không để lại một dấu vết. Trống trải. Im lặng. Chỉ có những giọt nước mắt trào ra trên má. Chỉ có đôi mắt đỏ hoe. Chỉ có bàn tay run đang cầm gói thức ăn và một thân xác sắp sụp đổ, một tâm hồn đang vỡ, phất phơ như chút sương sớm đang tan dần trong cơn gió.

Con ơi! Sao ngoại lại quên không đặt tên cho con. Ngoại vẫn nghĩ: hai ông cháu mình sẽ sống với nhau suốt đời. Có lần ngoại còn nghĩ rằng ngoại sẽ chết trước con, và con sẽ tìm đến nhà ngoại, nhảy lên chiếc giường ngoại đang nằm chết, và leo nằm trên ngực ngoại. Thế mà con lại ra đi trước, lúc mới năm tháng tuổi.

Cánh cửa sịch mở, và người chủ nhà bước ra. Anh ta đến gần tôi.

-Chú đã biết rồi sao?

Tôi im lặng. Anh ta ngồi xuống ghế đá đối diện. Tôi không muốn hỏi về cái chết, bởi vì tôi sợ mình không chịu nổi những tình tiết của câu chuyện.

Nhưng anh ta vẫn kể.

38.LỜI KỂ

CỦA NGƯỜI CHỒNG

(10/9/2019)

Vợ cháu nói: Đừng cho nó ăn no, mỗi ngày chỉ cho ăn một buổi với ít cơm thừa. Nó đói, nó phải đi tìm chuột mà bắt. Cháu nói: Trời sinh mèo ra là để bắt chuột. Đói nó cũng bắt mà no nó chũng bắt. Nó bắt để giỡn chơi. Vậy em cứ cho nó ăn no đi, nó có sức mới bắt được chuột. Nhưng vợ cháu không nghe. Con mèo chỉ ăn một ít cơm lạt vào buổi trưa nên chiều tối nó đói, nó phải đi lang thang ngoài đường kiếm ăn, nhiều khi nó lẻn vô nhà hàng xóm ăn vụng bị người ta đánh.

Bữa nọ, cháu thấy sáng sớm chú đem cá đến cho nó ăn ngoài ghế đá, cháu cũng yên tâm vì thấy nó ốm quá, chỉ sợ nó chết. Nhưng vợ cháu không hài lòng.

“Có phải mèo của ổng đâu mà ổng cho ăn. Sáng nào cũng đến ngồi ghế đá dòm vô nhà. Khó chịu quá,”

Cháu nói:

“Ổng có dòm đâu. Anh thấy chú chỉ lo cho mèo ăn. Xong rồi chú lau cái bàn đá cho sạch, chắc sợ mình cằn nhằn. Lau bàn xong, chú về.”

“Nhưng cho nó ăn cá, nó no rồi sao bắt chuột?”

“Nhưng em thấy có con chuột nào trong nhà đâu nà?”

Vậy mà vợ cháu vẫn tỏ vẻ khó chịu. Đến mùa Vu Lan này, nhà cháu ăn chay cả tháng. Vợ cháu nói:

“Mình ăn chay cả nhà, chẳng lẽ mèo cũng ăn chay?”

“Sao lại không? Thì em cứ cho nó ăn cơm trắng cũng được. Đói thì nó phải ăn thôi.”

Nhưng vợ cháu đã quyết định không cho mèo ăn nữa. Cúp luôn bữa trưa. Cổ nói:

“Bữa sáng có ông già cho ăn rồi. Nhiêu đó đủ rồi. Nếu mình cho ăn bữa nữa nó sẽ không bắt chuột đâu.”

Cháu không muốn vì một con mèo mà vợ chồng cãi cọ nên cháu bỏ thí. Cháu muốn thông báo cho chú biết chuyện đó nhưng thấy kỳ quá nên thôi.

Và đó là nguyên nhân dẫn đến cái chết của nó. Nó đói, lang thang khắp nơi, chui vào bếp người ta. Rồi có ai đó trộn thuốc độc vào thức ăn để nó khỏi đến làm phiền nữa!

Và cũng có thể là nó đã ăn bã người ta dùng để diệt chuột.



Ngôi mộ nghèo nàn của Innova

Chiều ngày 8/8/2019, khi cháu ở trong nhà bước ra thì thấy nó nằm bên gốc cây, cháu tưởng nó ngủ, nhưng khi đến gần, thấy hai mắt nó trợn trắng, kiến bu đầy. Cháu đem chôn nó dưới gốc cây xoài đàng kia kìa.

Tôi ngoái nhìn. Đó là một cây xoài thấp, mới trồng, ở ngay khúc quanh, nơi hàng ngày tôi vẫn thường qua lại.

Trong khi anh ta kể chuyện, tôi không nói một lời. Chỉ biết khóc. Tại sao người ta có thể cho một con mèo con hiền lành dễ thương như thế ăn bã độc. Khi nó biết mình sắp chết, nó còn ráng chạy về nằm dưới gốc cây trước cửa nhà. Lúc đó vào khoảng 5 giờ chiều ngày 8 tháng 8 năm 2019.

Tôi không hề hay biết gì cả.

Con ơi! Con chỉ là một con mèo nhỏ mới năm tháng tuổi. Con cũng giống như một đứa trẻ lên ba. Một đứa trẻ mồ côi, nghèo nàn, đơn độc, không nơi nương tựa. Ngoại quen với con dưới gầm xe, ngoại nuôi con. Và vì không thể đưa con vô nhà, và cũng vì ngoại bị tai nạn giao thông, nên ngoại phải gởi con cho nhà hàng xóm khi anh ta ngỏ ý xin con về.

Nhưng cái gia đình ấy đã không sòng phẳng với con. Họ muốn con bắt chuột cho họ nhưng lại bỏ đói con như một nô lệ không công. Họ bóc lột, họ lợi dụng sức lao động của một đứa trẻ mồ côi mới năm tháng tuổi một cách ti tiện, hèn hạ mà không biết xấu hổ.

Họ là ai vậy? Là loại người nào vậy? Tại sao tạo hóa lại sinh ra một loài động vật mang hình dạng con người như vậy? Đó là động vật gì? Động vật gì mà nỡ ăn cướp sức lao động của một đứa trẻ mồ côi mới năm tháng tuổi (tương đương với một con người ba tuổi rưỡi)?

Nó chỉ là một con mèo nhỏ hiền lành, ai bế cũng được, ai muốn xách đi đâu thì xách, đem về nhà cho trẻ con chơi đùa chán chê rồi đuổi về.

Nó không đòi hỏi gì. Nếu có đói thì cũng chỉ xin một ít cơm thừa, nếu có buồn ngủ thì cũng chỉ xin một chỗ dưới gầm giường hay xó nhà tối tăm nào đó. Bữa ăn của nó không đáng giá một đồng bạc, chỗ nằm của nó chỉ bằng một miếng giẻ lau. Nhưng bắt một con chuột? Bạn thử thuê một người nào đó 100 ngàn xem họ có bắt được không? Thế sao chỉ vì nó trộm một con cá nhỏ mà bạn lại giết nó?

Những ý nghĩ đó tôi không nói bằng lời mà nói bằng nước mắt, bởi tôi hiểu rằng người đàn ông ngồi trước mặt tôi không thể nào hiểu được. Và cũng quá muộn rồi. Và bây giờ nó đã nằm trong lòng đất ẩm ướt dưới gốc xoài kia, bởi những trận mưa kéo dài trong mấy ngày qua.

Người chủ nhà nói:

-Thôi, chú về đi. Về nghỉ.

Tôi đứng lên. Cái chân vẫn còn đau, đi cà nhắc. Anh ta bước theo tôi, đến ngay gốc xoài.

-Cháu đã đặt lên mộ mấy cái vỏ dừa khô để làm dấu.

Nhìn nấm mộ, tôi bật khóc. Khóc nức nở. Tôi gọi:

-Meo, meo! Ông ngoại đến thăm con. Con có biết không? Ông ngoại muốn ôm con  như mỗi sáng ông đem cá đến cho con và ôm con trước ngực cho con ngủ. Để nghe tiếng con rên gừ gừ nho nhỏ, nhõng nhẽo như trẻ hài nhi, hoàn toàn tin cậy, hoàn toàn phó thác mình trong hơi ấm của tình người, trong hạnh phúc nhỏ nhoi của thân phận chúng sinh phù du hèn mọn.

Người chủ nhà bỏ đi.

Tôi còn lại một mình khi đám mưa phùn lại trở về từ cơn bão rớt.

39. MỘT THẾ GIỚI BUỒN

BÊN CẠNH CHÚNG TA

(1/12/2019)

Con đã chết mà chưa có một cái tên. Vậy ông ngoại đặt tên cho con là Innova vì hai ông cháu mình đã quen nhau dưới gầm chiếc xe đó.

Trên mặt đất này, đầy dẫy những con mèo mồ côi như Innova. Chúng sống nheo nhóc, ở vỉa hè, bụi rậm, dưới những mái hiên xiêu đổ, dột nát.

Chúng thức dậy từ khuya và đi lang thang để kiếm một thứ gì có thể ăn được. Một con gián hay một mẩu bánh mì, một cái đầu cá nằm lẩn trong đống rác.

Chúng không có mẹ để bú, chúng đi cùng những đứa mồ côi khác, nhưng tất cả đều đã mõi mòn, xiêu vẹo, còm cõi… không còn sức để nô đùa.

Chúng lang thang như những con ma nhỏ, phiêu hốt đây đó như chiếc lá khô bị gió cuốn đi, trôi dạt trên mặt đất cằn, xa lạ, cạn kiệt và lạnh lẽo.

Con Innova của tôi là một đứa trẻ như thế.

Nó may mắn tìm được cái gầm xe.

Và gặp tôi.

Rồi người hàng xóm xin về.

Và đã ngược đãi nó cho đến chết.

Mỗi khi đi phố về, ngang qua nấm mồ, tôi đều dừng xe lại. Meo! Meo! Ông ngoại đến thăm con. Innova ơi! Ông ngoại nè con.

Meo meo!

Mọi người trên cõi đời này đều sống với những cuộc vui: sinh nhật, đám cưới, liên hoan ca nhạc, vũ trường… còn tôi, hàng ngày đi ngang qua nấm mồ của Innova, của Bún, của Mì, của Tam Thể, của Vô Danh (chú mèo con bị giòi hút khô máu)… trong tâm tưởng luôn vang lên giai điệu buồn “meo meo” yếu ớt, vô vọng giữa cỏ cây, giữa bãi hoang, giữa đất đá câm nín.

Meo meo, khúc kinh cầu Requiem của Mozart.

*

Một ngày của tôi bắt đầu với những con mèo vây quanh giường. Tôi gấp chăn và mở cửa phòng đưa chúng lên sân thượng. Ở đó có một phòng thờ, một tủ thờ với nhiều ảnh những người thân của tôi đã chết từ lâu lắm. Tôi thắp hương và khấn: “Xin Trời Phật, ông bà, cha mẹ… phù hộ cho những con mèo của con khỏi bị người ta làm hại”.

Tôi ra sân thượng nằm võng, và những con mèo nằm kế đôi dép. Chúng không thể gác đầu lên tay, lên ngực tôi nên gác đầu lên chiếc dép.

Ngày của tôi bắt đầu bằng một buổi sáng yên tĩnh như thế. Có lẽ nó khác với ngày của bạn. Có lẽ nó khác với ngày của nhiều người.

Không thể dục dưỡng sinh. Không hàng quán bún, phở, cà phê, thuốc lá…

*

Chúng ta sống cuộc đời của mình, trong thế giới của mình và cứ tưởng rằng đâu đâu cũng như vậy, ai ai cũng như vậy. Không hiểu rằng quanh mình đang tồn tại nhiều thế giới khác.

Ví dụ như khi đi ngang vườn hoa của tôi, bạn chỉ thấy hoa, thấy cỏ. Nhưng tôi, tôi còn thấy những con mèo con đã từng hấp hối trên tay tôi, từng chết cứng đờ, lạnh ngắt trên những ngón khẳng khiu, đờ đẫn. Tôi còn nghe những tiếng kêu nhỏ nhoi tuyệt vọng cuối cùng của một mèo con sắp chết.

Ví dụ như khi bạn nhậu xong, trả tiền rồi bỏ về, còn tôi thì nán lại, xin một cái bao ny-lông để đựng chút cá, thịt thừa đem về cho lũ mèo hoang.

Ví dụ như bạn ăn cơm chiều xong thì nằm nghe nhạc hay coi bóng đá, còn tôi thì trộn cơm cho mèo, chia làm hai loại. Mèo nhà thì đựng thức ăn trong những cái tô, mèo hoang thì dùng cái khay lớn.

Trộn xong thì lấy xe đem thức ăn ra bờ sông, trải những tấm ny-lông rải rác trên nền đất cho các nhóm mèo khác nhau. Lũ mèo đã đợi sẵn từ lâu, chạy lăng xăng mừng rỡ. Tôi đạp xe bỏ đi vì có những con mèo hoang rất nhát, không dám đến gần người.

Lát sau tôi quay lại thì đã thấy chúng quây quần quanh những tấm ny-lông.

Tôi yên tâm trở về.

Lúc ấy trận bóng đá đã sang hiệp hai. Tôi đứng ngoài bờ rào của một quán nhậu, coi ké trong giây lát.

40. GIAO CẢM

TRONG IM LẶNG

(6/12/2019)

Nếu tôi ăn, ngủ, làm việc, giải trí… thì đó là cuộc sống bình thường. Nếu tôi bước vào một cuộc tình thì có nghĩa là đang đặt chân vào thế giới khác. Nếu tôi chơi đàn thì lại giống như đang thả mình vào một đại dương mênh mông của giai điệu và tiết tấu.

Hay thử “chơi” ma túy? Đó sẽ là chuyến du hành vào cõi âm, đầy ảo giác và hoang tưởng.

Nhưng ẩn đàng sau những thế giới hữu hình này, vẫn còn nhiều thế giới khác nữa.

Tôi chọn thế giới mèo.

Đó là một thế giới im lặng.

Có những con mèo suốt đời im lặng. Ngay cả khi chúng bị đau, chúng cũng im lặng. Đói, cũng im lặng.

Tôi đi tìm khắp nơi, gọi khan cổ. Chúng cũng im lặng. Đến khi quá mệt, trở về nhà, thì nó đứng ngay cửa. Thấy mình, nó nằm xuống đất, lăn qua lăn lại. Mọi bực tức tiêu tan hết. Chỉ còn biết bế nó lên và trách: “Con đi đâu suốt ngày, để ngoại tìm quá trời!”

Vì những con mèo im lặng nên tôi cũng im lặng. Rồi từ đó, tôi nhìn thế giới khác hẳn.

Cũng giống như người biết bơi. Sẽ nhìn biển như một người bạn. Sóng trở thành lũ trẻ con. Ta đùa giỡn với sóng suốt ngày không chán. Đêm tối mịt, ta bơi ra biển, lặn xuống và quẫy nước, sẽ thấy minh đang bơi trong một thế giới lộng lẫy những châu báu rực sáng. Đó là những chùm sáng của lân tinh trong nước biển.

Những người không biết bơi hay những người sợ biển đêm, sẽ không bao giờ biết điều đó.

Những người không nuôi mèo, không thương mèo, cũng sẽ không bao giờ biết được cái cảm giác được làm mẹ một đàn con đang yêu mình, đang mong được gần gũi, được dụi mặt vào cổ mình, vào lòng bàn tay mình, được liếm vành tai mình bằng cái lưỡi rất nhám và rất nhột của chúng.

Những người không yêu mèo sẽ không bao giờ có được niềm hạnh phúc khi nhìn đàn con lăng xăng chạy quanh khi thấy ông ngoại xuất hiện, rồi quây quần quanh khay thức ăn mà ông ngoại vừa đặt xuống.

Đối với tôi, nuôi mèo cũng là một trải nghiệm như khi tôi chơi piano, như khi tôi bơi một mình trong biển đêm đen kịt, giong ruổi giữa những chòm hoa lân tinh rực sáng, thất lạc trong một thế giới diễm ảo.

Mỗi con mèo – kể cả mèo đực –  là một cô gái, một người phụ nữ. Chúng nhõng nhẽo, chúng sang chảnh, chúng biết “làm giá”, chúng biết hờn dỗi, biết tủi thân và biết cách tỏ tình.

Và tất cả những biểu hiện đó đều rất thực.

Một người nữ nói yêu bạn, bạn còn phải xét xem họ thực, hay đùa, hay nói dối. Nhưng một con mèo đến nằm trong lòng bạn thì bạn chẳng cần phải nghĩ ngợi gì cả. Hãy vuốt ve nó. Nó đang đón nhận trọn vẹn tình yêu của bạn. Và bạn cũng cảm nhận điều đó một cách viên mãn, trong lành, tin cậy. Bạn hiểu nó đang trao cả trái tim nó cho bạn, đang phó thác cả cuộc đời nó cho bạn gratuitement. Hoàn toàn miễn phí. Vô điều kiện. Đó là sự khác biệt giữa một con vật nuôi và một con người.

Và trên khía cạnh đó, nó cao quý hơn chúng ta.

Ngày nào tôi còn nuôi mèo, còn chơi với mèo, ngày đó tôi còn nhiều điều để viết về chúng.

Nhưng cuốn NHẬT KÝ MÈO cũng phải có lúc chấm dứt, tuy hàng ngày tôi vẫn cho chúng ăn, vẫn ngủ với chúng, vẫn đi ngang qua khu vườn hoa nơi chúng đang yên nghỉ. Ici reposent mes chats errants. Nơi đây yên nghỉ những con mèo hoang của tôi.

Ông ngoại sẽ là người canh gác và chăm sóc nghĩa trang này, để mãi mãi linh hồn các con không bao giờ đơn độc.

Ngày 8/12/2019

ĐÀO HIẾU

Bình luận về bài viết này