Antoine De Saint Exupéry
Văn sĩ và phi công người Pháp, một anh hùng trong đời thực, người nhìn sự phiêu lưu mạo hiểm dưới góc độ của một thi sĩ – hoặc đôi khi với con mắt trẻ thơ. Hoàng tử bé là tác phẩm nổi tiếng nhất của Saint-Exupéry, ra đời vào năm 1943 và đã trở thành một trong số các tác phẩm văn học cổ điển dành cho trẻ em trong thế kỷ hai mươi. Ông tham gia Chiến tranh Thế giới lần II với cương vị phi công chiến đấu. Máy bay của ông bị bắn rơi trên vùng trời nước Pháp vào năm 1944.
“ Những người lớn, chẳng bao giờ tự họ hiểu được cái gì cả, và thật là mệt cho trẻ con lúc nào cũng phải giải thích cho họ. ” (trích Hoàng tử bé, 1931)
Antoine de Saint-Exupéry sinh ở Lyons ngày 29 tháng 6 năm 1900 trong một gia đình quí tộc địa phương lâu đời. Cha ông là một chuyên viên công ty bảo hiểm, mất năm 1904 vì chứng đột quị. Mẹ ông, bà Marie de (Fonscolombe) Exupéry (1875- 1972), đưa các con đến Le Mans vào năm 1909, tại lâu đài Saint-Maurice-de-Rémens của người dì. Tại đây, ông đã trải qua những năm tháng tuổi thơ giữa những người thân của mình. Ông theo học các trường dòng Jesuit ở Montgré và Le Mans, và cả trường Công giáo ở Thụy Sĩ (1915-1917). Sau khi thi rớt trường dự bị đại học, ông đăng ký học môn kiến trúc ở trường cao đẳng Beaux-Arts.
Bước ngoặt của cuộc đời ông xảy ra khi ông nhập ngũ vào năm 1921, và được gởi đến Strasbourgh để dự khóa huấn luyện phi công. Vào ngày 9 tháng 7 năm 1921, ông bay chuyến đầu tiên một mình với kiểu máy bay Sopwith F-CTEE. Ông lấy bằng phi công vào năm 1922, và sau đó định cư ở Paris nơi ông khởi sự viết văn. Tiếp theo đó là những năm kém may mắn. Cuộc đính hôn của ông với nữ văn sĩ Louise de Vilmorin bị hủy bỏ, và ông cũng không thành công trong việc viết lách và kinh doanhư Ông phải làm hàng loạt nghề từ quản thủ thư viện đến buôn bán động cơ. Tác phẩm đầu tay của ông là truyện ngắn Người lái máy bay (L’Aviateur) xuất bản vào năm 1926 trên tạp chí văn học Le Navire d’argent. Sau đó, ông tìm thấy một công việc thực sự, là chuyên chở thư tín cho công ty thương mại hàng không Aéropostale ở Bắc Phi trong 3 năm, với nhiều lần chết hụt. Vào năm 1928, ông làm giám đốc vùng bay Cap Juby ở Rio de Oro, sâu trong sa mạc Sahara. Ông yêu thích sự cô độc của sa mạc và mô tả vẻ đẹp hoang dã của nó trong các tác phẩm Hoàng tử bé và Thành trì (1948). Trong vòng 3 năm, Saint-Exupéry viết tiểu thuyết Tàu thư phương nam (1929), ngợi ca lòng dũng cảm của những phi công đầu tiên, những con người đã bất chấp hiểm nguy trong cuộc đua tranh tốc độ, để chiến thắng các đồng nghiệp đưa thư của họ theo đường tàu hỏa và đường thủy. Một mạch truyện khác trong tác phẩm này mô tả cuộc tình bất thành của tác giả với nữ văn sĩ Louise de Vilmorin. Tàu thư phương nam được đạo diễn Robert Bresseo dựng thành phim vào năm 1937.
Vào năm 1929, Saint-Exupéry đến Nam Mỹ làm công việc chuyên chở thư tín qua dãy Andes. Kinh nghiệm này làm nên cốt truyện của tiểu thuyết thứ hai, Bay đêm, đã trở thành một bestseller trên bình diện quốc tế, đoạt giải Femina, và được được đưa lên màn ảnh vào năm 1933, với các ngôi sao điện ảnh Clark Gable và Lionel Barrymore. Trong câu chuyện, Rivière, người phụ trách sân bay kiên nghị, đã từ bỏ tất cả các toan tính về hưu và xem công việc chuyên chở thư tín như là mục đích đời mình. ’Chúng ta không cần đến sự vĩnh cửu’, ông nghĩ. ‘Điều mà chúng ta cần là không để những hành động và sự việc đột nhiên mất đi ý nghĩa thực sự của chúng. Nhờ đó, thế giới xung quanh chúng ta sẽ mở toang ra từ mọi phía.’ (trích Bay đêm)
Saint-Exupéry lập gia đình năm 1931 với Consuelo Gomez Castillo, và khởi sự làm phi công thử nghiệm cho Air France và các công ty hàng không khác. Ông viết cho tờ Paris-Soirmô tả sự cố khẩn cấp ở Moscow năm 1936, và sáng tác hàng loạt bài viết về Cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha. Saint-Exupéry sống cuộc đời phiêu bạt, rày đây mai đó : ông mua một máy bay hiệu Caudron Simoun (F-ANRY) với số tiền còn lại của mình, và trải qua một tai nạn máy bay ở Libya, sau đó mua một máy bay Caudron Simoun khác vào năm 1937 và lại gặp tai nạn chấn thương nghiêm trọng ở Guatemala trong một vụ rớt máy bay.
Với sự động viên của người bạn André Gide, Saint-Exupéry viết một quyển sách về nghề lái máy bay. Cõi người ta, ra đời năm 1939, đoạt giải Grand Prix du Roman của Viện Hàn Lâm Pháp 1939 và giải National Book Award ở Mỹ. Đạo diễn Jean Renoir (1894-1979) muốn dựng thành phim và thảo luận với tác giả, chủ yếu về các chủ đề văn học mà ông ghi nhận. Vào thời điểm đó Renoir làm việc ở Hollywood nơi người ta dựng phim trong phim trường. Renoir đưa ra ý tưởng dựng phim ngay tại chính các địa điểm được mô tả trong truyện. Điều này sẽ có lợi thế để thành công ở Mỹ, nhưng tiếc thay, không ai muốn sản xuất bộ phim.
Sau khi nước Pháp bị thất thủ trong Chiến tranh Thế giới lần II, Saint-Exupéry gia nhập quân đội, thực hiện hàng loạt phi vụ, mặc dù ông bị xem như là không đủ khả năng lái máy bay chiến đấu do mắc phải hàng loạt chấn thương trước đây. Tuy vậy, Saint-Exupéry vẫn được phong tặng huân chương Croix de Guerre [Croix de Guerre : huân chương được nhà nước Pháp trao tặng cho các cá nhân hoặc đơn vị có thành tích trong Chiến tranh Thế giới lần II.]. Ông rời Mỹ năm 1942 và bị phê phán bởi những người đồng hương vì đã không ủng hộ lực lượng Nước Pháp Tự Do của de Gaulle ở London. Phi công chiến tranh (1942) mô tả chuyến bay tuyệt vọng của ông trên giới tuyến quân địch, khi nước Pháp đã thực sự bị đánh bại. Năm 1943 ông tái gia nhập không lực Pháp đóng ở Bắc Phi (trong phi đoàn người ta gọi ông một cách thân mật là Saint-Ex hay “thiếu tá Ex”) và xuất bản tác phẩm nổi tiếng nhất của mình, Hoàng tử bé (1943), một truyện ngụ ngôn trẻ em dành cho người lớn. Cuốn sách đã được dịch sang gần năm mươi ngôn ngữ.
Hoàng tử bé (1943, Le Petit Prince) – minh họa bởi chính tác giả. Câu chuyện về một phi công phải hạ cánh khẩn cấp trong sa mạc. Anh gặp một cậu bé, người hóa ra là một hoàng tử từ hành tinh khác đến. Hoàng tử kể về những cuộc phiêu lưu của em trên Trái Đất và về bông hồng quí giá trên hành tinh của em. Em thất vọng khi phát hiện ra hoa hồng là loài bình thường như bao loài khác trên Trái Đất. Một con cáo sa mạc khuyên em nên yêu thương chính bông hồng của em và hãy tìm kiếm trong đó ý nghĩa của cuộc đời mình. Nhận ra điều ấy, hoàng tử quay trở về hành tinh của em.
Ngày 31 tháng 7 năm1944, Saint-Exupéry cất cánh từ đường băng hẹp ở Sardinia trong một phi vụ trên vùng trời miền Nam nước Pháp. Và vào cái ngày định mệnh đó, “thiếu tá Ex” đã ra đi mãi mãi, không bao giờ trở về nữa… Trường hợp của ông được xem như là mất tích. Sau này, người ta đoán rằng, máy bay của ông bị bắn rơi trên vùng biển Địa Trung Hải hay có lẽ ông đã gặp phải tai nạn. Saint-Exupéry để lại bản thảo dang dở của tác phẩm Thành trì và một vài ghi chép mà chúng được xuất bản sau ngày ông mất.
“Tự do và áp bức là hai mặt của cùng một điều tất yếu, nơi mà tồn tại điều này thì không thể tồn tại điều kia” (trích Thành trì, 1948). Quyển sách phản ánh sự quan tâm ngày càng tăng của Saint-Exupéry đối với chính trị, và những tư tưởng then chốt sau cùng của ông.
Sự nghiệp văn chương :
- L’AVIATEUR, 1926 – Người lái máy bay
- COURRIER-SUD, 1929 – Tàu thư phương nam – Southern Mail – dựng phim 1937, đạo diễn Robert Bresseo
- VOLE DE NUIT, 1931 – Bay đêm – Night Flight – dựng phim 1933, đạo diễn Clarence Brown, với các ngôi sao điện ảnh John Barrymore, Clark Gable, Helen Hayes, Myrna Loy, Lionel Barrymore
- TERRE DES HOMMES, 1939 – Cõi người ta – Wind, Sand, and Stars
- PILOTE DE GUERRE, 1942 – Phi công chiến tranh – Flight to Arras
- LETTRE À UN OTAGE, 1943 – Thư gửi một con tin – Letter to a Hostage
- LE PETIT PRINCE, 1943 (illust. by Saint-Exupéry) – Hoàng tử bé – The Little Prince
- LA CITADELLE, 1948 – Thành trì – The Wisdom of the Sands
- .UVRES COMPLÈTES, 1950 (7 vols.)
- .UVRES, 1953
- LETTRES DE JEUNESSE, 1923-31, 1953
- CARNETS, 1953
- LETTRES À SA MÈRE, 1955
- UN SENS À LA VIE, 1956 – Cảm nhận cuộc sống – A Sense of Life
- LETTERS DE SAINT EXUPÉRY, 1960
- LETTRES AUX AMÉRICAINS, 1960
- ECRITS DE GUERRE, 1939-1944, 1982 – Những ghi chép trong thời chiến – Wartime Writings
|
Anh xin lỗi các em bé vì đã đề tặng cuốn sách này cho một ông người lớn. Anh có một lý do bào chữa nghiêm chỉnh : ông người lớn này là người bạn tốt nhất mà anh có trên đời. Anh có một lý do khác nữa : ông người lớn này có thể hiểu mọi chuyện, ngay cả những cuốn sách viết cho các em bé. Anh có một lý do thứ ba : ông người lớn này hiện đang sống đói và rét ở nước Pháp. Ông ấy quả thật đang cần được an ủi. Nếu mà tất cả những lý do bào chữa ấy vẫn không đủ, thì anh rất muốn tặng cuốn sách này cho cậu bé hồi xưa, mà đã là ông người lớn bây giờ. Tất cả mọi người lớn lúc đầu đều là những em bé (nhưng ít người trong số họ còn nhớ điều ấy). Vậy anh xin chữa lại lời đề tặng :
|
I
Hồi lên sáu, có lần tôi đã nhìn thấy một bức tranh tuyệt đẹp trong một cuốn sách nói về Rừng hoang nhan đề “Những chuyện có thật”. Nó vẽ một con trăn đang nuốt một con thú. Đây là bản sao của bức tranh đó.
II
Tôi đã sống cô đơn như vậy đó, chẳng có ai để chuyện trò thực sự, cho đến khi máy bay của tôi bị hỏng giữa sa mạc Sahara, cách đây sáu năm. Có cái gì đó trong động cơ của tôi bị gãy. Và tôi chỉ đi một mình không có hành khách cũng chẳng có thợ máy, tôi phải một mình bắt đầu cuộc sửa chữa khó khăn. Đấy là vấn đề sống chết với tôi. Tôi chỉ có đủ nước để uống trong nhiều nhất là tám ngày.
III
Phải rất lâu tôi mới biết em từ đâu đến. Ông hoàng bé nhỏ, vốn rất hay đặt câu hỏi cho tôi, lại dường như không bao giờ chú ý nghe tôi hỏi. Chỉ vì những tiếng ngẫu nhiên buột ra dần dần nói cho tôi hiểu mọi sự. Ví dụ như, khi lần đầu em thấy chiếc máy bay của tôi (tôi sẽ không vẽ chiếc máy bay đâu, bức vẽ đó quá phức tạp đối với tôi) em hỏi tôi:
IV
V
Mỗi ngày tôi lại biết thêm một điều gì đó về hành tinh, về lúc ra đi, về cuộc du hành của cậu. Cái ấy đến nhẹ nhàng bằng những suy đoán ngẫu nhiên. Cũng như vậy đó mà vào ngày thứ ba, tôi được biết về tấm bi kịch của những cây baobab.
VI
Ô | i! Ông hoàng bé nhỏ ơi, dần dà, như vậy đó, tôi hiểu ra cuộc đời nhỏ nhoi buồn bã của em. Bao lâu nay em chỉ nhờ sự êm đềm của hoàng hôn để mà khuây khoả. Tôi biết được nét mới đó vào buổi sáng ngày thứ tư, khi em bảo tôi: |
VII
Ngày thứ năm, vẫn là nhờ ở con cừu, tôi biết được cái bí mật ấy trong cuộc đời ông hoàng bé nhỏ. Bất ngờ em hỏi tôi, không cần mào đầu, y như đó là kết quả của một vấn đề được âm thầm suy nghĩ từ lâu rồi:
VIII
Tôi đã tìm hiểu rất nhanh để hiểu hơn về đoá hoa này. Trên tinh cầu của ông hoàng nhỏ, vẫn thường có những bông hoa rất đơn giản, điểm trang chỉ bằng một vòng cánh hoa, và chẳng chiếm bao nhiêu chỗ, và chẳng làm phiền ai. Một buổi sáng, chúng hiện ra trong cỏ rồi lại héo tàn vào chiều tối. Nhưng cái cây hoa ấy, một ngày kia, đã nảy mầm từ một cái hạt không biết từ đâu tới và ông hoàng nhỏ đã theo dõi cái mầm con không giống với các mầm con nào khác. Nó có thể là một loại baobab mới. Nhưng cái cây nhỏ liền thôi không lớn lên nữa, và bắt đầu sửa soạn để ra hoa. Ông hoàng nhỏ chứng kiến sự xuất hiện một cái nụ lớn, cảm thấy rõ ràng từ cái nụ này sẽ lộ ra một điều kỳ diệu, nhưng đoá hoa vẫn cứ điểm trang hoài, nấp kín trong căn buồng xanh của nó. Hoa chưa chọn kỹ mầu sắc của mình. Hoa chậm rãi trang phục, sửa lại ngay ngắn từng cánh hoa. Hoa không muốn hiện ra nhàu nát như cái mồng gà. Hoa chỉ muốn lộ ra trong sắc hương rực rỡ. Ôi chao! Hoa thật là điệu! Cuộc trang điểm huyền bí của nàng kéo dài từ ngày này sang ngày nọ. Và rồi tới một sớm mai, đúng giờ mặt trời mọc, nàng hiện ra.
IX
Tôi đoán rằng em nhờ vào một chuyến thiên di của loài chim hoang để mà thoát đi. Buổi sáng hôm ra đi, em đã dọn dẹp tinh cầu thật ngăn nắp. Em nạo vét kỹ càng các quả núi lửa đang hoạt động của em. Em có hai quả núi lửa đang hoạt động. Và chúng rất thuận tiện cho việc nấu ăn buổi sáng. Em cũng có một quả núi lửa đã tắt… Nhưng, như lời em nói: “Biết đâu đấy!” nên em cũng nạo vét cả quả núi lửa đã tắt nữa. Được nạo vét kỹ, các quả núi lửa sẽ cháy đỏ và đều, không có phun trào. Các trận phun trào của núi lửa cũng giống như lửa trong lò sưởi. Tất nhiên là trên trái đất của chúng ta, chúng ta thật nhỏ bé quá, không nạo vét được các quả núi lửa của mình. Cho nên chúng gây cho ta nhiều điều phiền phức.
|
X
Cậu em đã đi qua vùng có các tiểu tinh cầu 325, 326, 327, 328, 329 và 330. Em bắt đầu đi thăm các tiểu tinh cầu ấy để kiếm việc và để học hỏi.
XI
Trên tinh cầu thứ hai cư trú một gã khoác lác.
XII
XIII
Tinh cầu thứ tư là của một nhà doanh nghiệp. Ông này bận rộn đến nỗi không ngẩng được đầu lên khi ông hoàng nhỏ tới.
XIV
Hành tinh thứ năm rất lạ. Nó là cái bé nhất trong số các hành tinh. ởđấy chỉ đủ chỗ cho một cây cột đèn và một người thắp đèn. Ông hoàng nhỏ nghĩ mãi nhưng không thể nào hiểu được tại sao, đâu đó trong bầu trời, trên một hành tinh không nhà cửa, không dân cư, lại có một cây cột đèn và một người thắp đèn để làm chi. Tuy vậy em tự bảo:
XV
Tinh cầu thứ sáu là tinh cầu mười lần rộng hơn. ở trên đó có một tôn ông già đang viết những cuốn sách dày cộp.
XVI
Hành tinh thứ bảy vậy là trái đất.
XVII
Khi người ta muốn ra vẻ thông minh, thường thì điều này sẽ dẫn đến việc người ta nói dóc đôi chút. Tôi không thật thà lắm đâu khi kể với các bạn về những người đốt đèn. Dám có thể tôi đã gây một ý niệm sai lầm về hành tinh của chúng ta đối với những ai chưa biết nó. Loài người chiếm rất ít chỗ trên mặt đất. Nếu hai tỷ con người đang sống trên mặt đất này mà đứng khá sát vào nhau, như trong một cuộc meeting, thì họ sẽ đứng gọn trong một quảng trường chỉ rộng hơn hai dặm, dài hai mươi dặm. Có thể dồn hết nhân loại lên một hòn đảo bé nhất trong Thái Bình Dương.
XVIII
Ông hoàng nhỏ đi qua sa mạc và chỉ gặp có một bông hoa. Một bông hoa chỉ ba cánh, một bông hoa chẳng là gì cả…
XIX
Ông hoàng nhỏ trèo lên một quả núi cao. Trước đây những núi non duy nhất mà em biết chỉ là ba quả núi lửa cao ngang đầu gối em. Và em đã dùng quả núi lửa đã tắt làm ghế ngồi. ” Từ trên một quả núi cao như quả núi này, em nói thầm, mình sẽ đưa mắt là thấy ngay hành tinh và tất cả mọi người . . . “. Nhưng em chỉ đã thấy có những mũi nhọn của các tảng đá nhọn hoắt.
|
XX
Nhưng ông hoàng nhỏ, sau khi đi rất lâu qua cát, đá và tuyết, cuối cùng cũng tìm thấy một con đường. Và mọi con đường đều đưa đến chỗ có người ở.
XXI
Chính vào lúc đó con cáo xuất hiện.
XXII
XXIII
XXIV
XXV
XXVI
Cạnh cái giếng, có một bức tường đổ nát. Khi ở chỗ làm việc trở lại vào chiều hôm sau, từ xa tôi đã thấy ông hoàng nhỏ của tôi ngồi trên đó, hai chân lơ lửng. Và tôi nghe em nói:
Nhưng em không trả lời câu tôi hỏi. Em bảo tôi:
XXVII
Và giờ đây, đúng vậy, sáu năm đã trôi qua… Tôi chưa bao giờ kể lại câu chuyện này. Những bạn bè gặp lại tôi rất lấy làm hài lòng thấy tôi còn sống. Tôi đã rất buồn, nhưng tôi nói với họ: Đó là vì mệt…
Và không một người lớn nào lại hiểu được chuyện ấy quan trọng đến nhường nào!
Cảnh ấy đối với tôi, là cảnh đẹp nhất và buồn nhất trên thế gian. Nó cũng là cái cảnh ở trang trước, nhưng tôi đã vẽ một lần nữa để bạn nhìn rõ hơn. Chính tại nơi đây ông hoàng bé nhỏ đã xuất hiện trên Trái Đất, rồi lại biến đi.Hãy nhìn chăm chú cảnh này cho đến khi bạn chắc rằng bạn có thể nhận ra nó, nếu ngày kia bạn du hành sang châu Phi, trong sa mạc. Và nếu bạn tình cờ đi ngang qua đó, tôi xin bạn, xin bạn đừng vội, hãy nán lại một chút ngay dưới ngôi sao ! Nếu bấy giờ có một đứa bé đến bên bạn, nếu em cười, nếu em có mái tóc vàng óng, nếu em không trả lời khi người ta hỏi, bạn sẽ đoán ra đấy là ai. Bấy giờ bạn hãy thương tôi ! Đừng để tôi buồn quá thế này : Hãy viết thư cho tôi báo rằng em đã trở lại…
Nguồn: Việt Nam Thư Quán |